Đề thi thử đại học môn văn 2016 khối D

0
Loading...

Sắp đến kỳ thi đại học rồi và hẳn giờ này các bạn đang rất tập trung vào việc học để có được kết quả cao nhất trong kỳ thi này đúng không nào? Hãy cùng Thuvienanhdep.net khám phá Đề thi thử đại học môn văn 2016 khối D qua các bài tóm tắt nội dung các tác phẩm hay nhất nhé!

Đề thi thử đại học bài : VỢ NHẶT ( Kim Lân)

Đề thi thử đại học môn văn 2016 khối D 1
1. Xuất xứ
Truyện Vợ nhặt có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư – tác phẩm được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dở dang và bị mất bản thảo. Hoà bình lập lại (1954), dựa trên một phần cốt truyện cũ, Kim Lân đã viết truyện Vợ nhặt. Tác phẩm được in trong tập Con chó xấu xí (1962).
2.Tóm tắt
Truyện lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945. Tràng – một thanh niên nghèo, lại là dân ngụ cư, trong một lần đẩy hàng đã tình cờ có được vợ. Cô vợ nhặt đã tình nguyện theo Tràng chỉ sau một câu nói đùa và bốn bát bánh đúc. Tràng đưa “thị” về giữa cảnh đói khát đang tràn đến xóm ngụ cư. Bà cụ Tứ thấy con có vợ thì vừa mừng vừa tủi cho thân phận nghèo khó của mình và thương con, thương nàng dâu đói khổ. Họ sống với nhau trong cảnh đói nghèo nhưng hạnh phúc và tin rằng: Việt Minh về làng, họ sẽ đi phá kho thóc Nhật, lấy lại thóc gạo để cứu sống mình.
3. Ý nghĩa nhan đề
– Nhan đề gợi tình huống éo le, kích thích trí tò mò người đọc. Thông thường, người ta có thể nhặt thứ này, thứ khác, chứ không ai “nhặt” “vợ”. Bởi dựng vợ gả chồng là việc lớn, thiêng liêng, có ăn hỏi, có cưới xin theo phong tục truyền thống của người Việt, không thể qua quýt, coi như trò đùa.
– “Vợ nhặt” là điều trái khoáy, oái ăm, bất thường, vô lí. Song thực ra nó lại rất có lí. Vì đúng là anh Tràng đã nhặt được vợ thật. Chỉ một vài câu bông đùa của Tràng mà có người đã theo về làm vợ. Điều này đã thực sự khiến một việc nghiêm túc, thiêng liêng trở thành trò đùa và ngược lại, điều tưởng như đùa ấy lại chính là sự thực. Từ đây, bản thân nhan đề tự nó đã gợi ra cảnh ngộ éo le, sự rẻ rúng của giá trị con người. Chuyện Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.
4.Tình huống truyện
– Tình huống truyện : Anh Tràng vừa nghèo, vừa xấu lại là dân ngụ cư thế mà lấy được vợ ngay giữa lúc đói khát, ranh giới giữa sự sống và cái chết hết sức mong manh.
– Tình huống lạ, độc đáo : người như Tràng mà lấy được vợ, thậm chí có vợ theo ! Thời buổi đói khát này, người như Tràng nuôi thân chẳng xong mà dám lấy vợ ! Chẳng phải thế mà việc Tràng có vợ đã tạo ra sự lạ lùng, ngạc nhiên với tất cả mọi người trong xóm ngụ cư, với bà cụ Tứ, thậm chí đã có những thời điểm chính Tràng cũng chẳng thể nào tin được vào điều đó.
– Tình huống truyện không chỉ tạo ra một hoàn cảnh “có vấn đề” cho câu chuyện mà còn nén trong đó ý đồ nghệ thuật của nhà văn đồng thời gợi mở các khía cạnh giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
5. Nhân vật
5.1 Tràng
*Tràng là người dân lao động nghèo, “nhặt” được vợ trong thời buổi đói khát:
– Bản thân anh là dân ngụ cư, dân ăn nhờ, ở đậu.
– Tràng sống với mẹ già trong một căn nhà xiêu vẹo trên bãi đất hoang mọc lổn nhổn những búi cỏ dại.
Hoàn cảnh xuất thân : khó lấy được vợ.

– Tuy nhiên, giữa cái khung cảnh tối sầm lại vì đói khát, Tràng bỗng nhiên “nhặt” được vợ.Cuộc gặp gỡ giữa Tràng và người đàn bà không tên diễn ra thât chóng vánh chỉ qua hai lần gặp mà chỉ gặp ở đường và chợ để rồi “nên vợ, nên chồng”:
+ Lần gặp thứ nhất : Trên đường kéo xe thóc lên tỉnh, Tràng hò chơi cho đỡ mệt “Muốn….”. Không ngờ, thị ra đẩy xe cho anh và còn liếc mắt cười tít nữa. Tràng thích lắm vì từ khi cha sinh mẹ đẻ đến giờ mới có một người con gái cười với hắn tình tứ đến như thế.
+ Lần gặp thứ 2, ở quán nước ngoài chợ. Ban đầu, Tràng không nhận ra vì thị khác quá, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt. Khi nhận ra rồi, trong lời đáp “ăn gì thì ăn, chả ăn giầu” Tràng sẵn sàng đãi thị bốn bát bánh đúc. Trong bối cảnh mà người ta lo thân không xong, ai cũng đứng trên miệng vực thẳm của cái chết hành động mà Tràng đãi thị bốn bát bánh đúc chứng tỏ rằng Tràng là một người khá tốt bụng và cởi mở. Chính sự tốt bụng và cởi mở của Tràng đã đem đến cho Tràng hạnh phúc, Tràng nói đùa với thị “Này … rồi cùng về”, nhưng thị đã theo Tràng về thật. Khi quyết định “đèo bòng” Tràng cảm thấy “chợn” nhưng “chậc kệ”
* Niềm hạnh phúc khi có vợ :
– Tràng khi đưa vợ về qua xóm ngụ cư : tâm trạng của anh hôm nay phớn phở, cười tủm tỉm, hai con mắt thì sáng lên lấp lánh, trước ánh mắt nhìn đầy tò mò và ngạc nhiên của người dân trong xóm, trước những lời xì xào bàn tán của người dân trong xóm, Tràng rất hãnh diện, rất đắc ý, mặt cứ vênh lên như thể chứng tỏ với mọi người- Tràng đã có vợ.
– Tràng khi đưa vợ về đến nhà : Hành động: xăm xăm nhấc tấm phên rách ra và câu nói “Không có người đàn bà nhà cửa ra thế đấy” ta hiểu rằng có vợ rồi người đàn ông ăn nói cục cằn kia bỗng văn hóa hẳn lên. Ánh mắt của anh đã để ý đến cô vợ nhặt và thắc mắc với lòng mình “Quái, sao nó lại buồn thế nhỉ?” Tràng sốt ruột mong ngóng mẹ về để còn ra mắt cô vợ nhặt.Khi mẹ về, sau lời giới thiệu, Tràng cũng hồi hộp, lo lắng đợi chờ câu trả lời của mẹ, và chỉ khi người mẹ nói “Các con phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng” Tràng mới thở đánh phào một cái.
Có thể nói, Kim Lân đã rất chú ý miêu tả diễn biến tâm trạng của Tràng từ khi có vợ. Có rất nhiều lần Kim Lân nhắc đến nụ cười của Tràng để nhấn mạnh đến niềm khát khao hạnh phúc, khát khao mái ấm gia đình để thách thức với cái đói đang tung lưới bủa vây.
– Tràng trong buổi sáng ngày hôm sau :
+ Tràng thấy mình như bước ra từ một giấc mơ, trong người “êm ái lửng lơ”.
+ Trước mặt anh mọi thứ đều thay đổi: nhà cửa sân vườn hôm nay đều được quét tước sạch sẽ; mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt ở góc nhà đã thấy đem ra sân hong; hai cái ang nước vẫn để khô cong duới gốc cây ổi giờ đã kín nước đầy ăm ắp. Rõ ràng những cảnh tượng rất đỗi bình thường ấy cũng đã làm cho anh cảm động, hạnh phúc với anh thật giản dị.
+ Từ buổi sáng đó, anh mới thấy mình nên người. Anh nghĩ đến tương lai, đến sự sinh sôi nảy nở của hạnh phúc để rồi vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng.
+ Và người vợ nhặt của Tràng hôm nay cũng khác lắm – đó là một người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn nữa.
+ Tràng thấy “thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Nguồn vui ấy như tia nắng, như ánh bình minh đem sinh khí đến cho cuộc sống vốn đang ngập tràn sự chết chóc của cái đói tung lưới bủa vây.
+ Và trong bữa cơm đầu tiên, bữa cơm của 3 con người đang khốn khổ vì cái đói, tràn ngập sự đầm ấm, hoà hợp.
– Hình ảnh khép lại tác phẩm trong óc Tràng là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đói đi trên đê Sộp, gợi cho người đọc nghĩ về Việt Minh, về Cách mạng tháng Tám vĩ đại, về sự vùng dậy của những người dân khốn khổ, đập tan xiềng xích, giành lại cơm áo, giành lại sự sống cho bản thân, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Vì thế, kết thúc của tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một niềm tin mãnh liệt, gieo một hạt giống hi vọng mãnh liệt vào tâm hồn Tràng, gia đình anh và tất cả bạn đọc chúng ta.
5.2 Thị (người “vợ nhặt”)
– Cũng giống như Tràng, khung cảnh Kim Lân để cho nhân vật này xuất hiện là một không gian tối sầm vì đói khát. Cũng giống như bao người khác, thị ngồi vêu cùng với mấy chị em gái nơi cửa nhà kho. Chị không có tên, không tuổi tác, không cha mẹ, không gia đình… môt con số không tròn trĩnh đang bao trùm lên lá số tử vi của chị. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả.
– Khi chưa theo Tràng về làm vợ cái đói đã để lại “dấu tích” ghê gớm trên dáng hình và tính cách của chị:
+ Lần gặp thứ nhất: có vẻ táo tợn, ăn nói mạnh mẽ “Có khối cơm trắng mấy giò mà ăn đấy! “Này nhà tôi ơi! Nói thật hay nói khoác đấy”
+ Lần gặp thứ 2: chân dung của thị khiến Tràng không nhận ra, gầy (dẫn chứng)…Thị cong cớn trong lời nói, vô duyên trong hành động “sà xuống đánh… cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc… ăn xong cầm đôi đũa quệt ngang miệng, thở: Hà ngon! Về chị thấy hụt tiền thì bỏ bố”. Tuy nhiên, ẩn đằng những lời nói và hành động ấy là khát vọng về hạnh phúc và sự sống.
– Kim Lân không có ý chê bai người vợ nhặt kia, dù thực tế cũng có những người phụ nữ không đẹp. Điều mà nhà văn muốn nhấn mạnh ở đây là: sức hủy hoại khủng khiếp của cái đói đối với hình hài và tính cách của con người. Vì đói mà thị cố tạo ra cái vẻ cong cớn, chao chát, chỏng lỏn như là để thách thức với số phận. Vì đói mà thị quên đi cả sĩ diện của mình, quên đi cả lòng tự trọng theo không một người đàn ông về làm vợ trong khi chẳng biết tí gì về anh ta. Vì đói mà thị đánh liều nhắm mắt đưa chân, đánh liều với hạnh phúc cả đời mình. Thị thật đáng thương. Nhưng đằng sau sự liều lĩnh ấy của thị, người đọc hiểu rằng, thị là người có ý thức bám lấy sự sống mãnh liệt.
– Miêu tả nhân vật thị, Kim Lân không chú trọng nhiều đến diễn biến tâm trạng bên trong mà Kim Lân chú ý nhiều đến hành động:
+ Thị bước sau Tràng chừng 3-4 bước, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che đi nửa mặt, mặt cúi xuống, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Thị đã ý thức được về bản thân, cái dáng cúi mặt kia phải chăng đó là sự tủi phận
+ Về đến nhà, trông nếp nhà rẹo rọ của Tràng, thị nén tiếng thở dài, tiếng thở dài chấp nhận bước vào cuộc đời của Tràng.
+ Hành động khép nép, tay vân vê tà áo khi đứng trước mặt bà cụ Tứ, thị thật đáng thương
– Tuy nhiên, ở sâu thẳm bên trong con người này vẫn có một niềm khát khao mái ấm gia đình thực sự. Thị đã trở thành một con người hoàn toàn khác khi là một người vợ trong gia đình. Hạnh phúc đã làm cho thị thay đổi từ một người phụ nữ cong cớn, đanh đá bỗng trở thành một người đàn bà hiền hậu đúng mực, mái ấm gia đình đã đủ sức mạnh làm thay đổi một con người.
– Hình tượng chị vợ nhặt thể hiện rất rõ tư tưởng nhân đạo của Kim Lân
+ Một mặt nhà văn đã lên án tội ác dã man của phát xít Nhật và TDP. Nạn đói do chúng gây ra đã cướp đi mọi giá trị của con người, và biến người con gái như một thứ đồ rẻ rúng có thể nhặt được
+ Mặt khác vợ Tràng đã nói lên một sự thật ở đời đó là trong đói khổ, hoạn nạn, kề bên cái chết nhưng con người vẫn khát khao được sống, vẫn sống ngay khi cả cuộc đời không thể chịu được nữa. Những con người nghèo khổ vẫn thương yêu đùm bọc, và cùng nhau vun đắp hạnh phúc để vượt qua những thử thách khắc nghiệt.
5.3 Bà cụ Tứ :
– Nhà văn Kim Lân tâm sự: “ Phần gây xúc động lớn nhất cho tôi khi đọc lại truyện ngắn Vợ nhặt đó là đoạn bà cụ Tứ- mẹ Tràng trở về”. Thông điệp nghệ thuật về bản chất nhân đạo trong tâm hồn người Việt ở hình tượng nhân vật bà cụ Tứ đã được Kim Lân thể hiện thành công qua diến biến tâm trạng của người mẹ nghèo ấy khi nhìn thấy chị vợ nhặt xuất hiện trong nhà mình cho đến buổi sáng ngày hôm sau.
– Ngạc nhiên và bất ngờ là tâm trạng đầu tiên ở người mẹ nghèo khi lật đật theo con từ ngõ vào nhà. Từ trước đến giờ có bao giờ Tràng mong ngóng mẹ về đến thế đâu, nhất định là phải chuyện gì quan trọng, khác thường. Chân bước theo con nhưng lòng bà đang phấp phỏng. Rồi “đứng sững lại” khi bà nhìn thấy một người phụ nữ đứng ở đầu giường con trai bà , mà lại chào bà bằng u. Ngạc nhiên đã làm cho bà lão không còn tin vào cảm giác của bà nữa, tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn đi thì phải. Nhưng thực sự mắt bà không nhoèn, và tai bà cũng không đến mức điếc lác như chị vợ nhặt nghĩ ban đầu. Bà chưa thể tin, không thể tin rằng con mình lại có người theo và lại chưa bao giờ hình dung nhận dâu trong một tình cảnh trớ trêu, tội nghiệp đến thế.
– Bà lão cúi đầu nín lặng, đằng sau cái cúi đầu nín lặng ấy là dòng cảm xúc tuôn trào, là cơn bão lòng đang cuộn xoáy với tình thương con vô bờ bến. Bây giờ thì bà không chỉ biết sự việc “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ” như lời Tràng thưa gửi mà bà còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp của con trai mình. Bà tủi thân, tủi phận, bà so sánh người ta với mình “người ta dựng vợ gả chồng cho con những lúc nhà ăn lên làm nổi, còn mình thì…”. Bà lão chua chát, tự trách bản thân mình, càng thương con bao nhiêu bà lại càng tủi phận bấy nhiêu. Bà lão đã khóc, những giọt nước mắt hiếm hoi của người già dưới ngòi bút nhạy cảm của Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc biết bao thương xót, tủi buồn.
Bà đã chấp nhận nàng dâu không phải chỉ bằng tình mẫu tử mà lớn hơn đó là tình người, là sự cảm thông với chị vợ nhặt từ cái nhìn của người cùng giới, cùng là phụ nữ. Câu nói đầu tiên mà bà cụ Tứ dành cho chị vợ nhặt “Ừ thôi các con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”, lời nói của bà như trút đi biết bao gánh nặng tâm trạng đang đè nặng trong Tràng, lời nói ấy như một sự chiêu tuyết cho giá trị của cô vợ nhặt. Câu nói ấy của bà làm cuộc hôn nhân của Tràng và thị không còn là chuyện nhặt nhau ở đường và chợ nữa mà là duyên phận. Cách nói giản dị mà chan chứa tình người quả thực đã làm ấm lòng những số phận tội nghiệp. Thị và Tràng dường như cũng sẽ ấm lòng hơn khi kinh nghiệm của một người mẹ từng trải nói “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà động viên an ủi con trai và con dâu cùng nhau bước qua khó khăn đói khổ trước mắt mà lòng đầy thương xót.
– Nhưng sau những lời động viên ấy ta lại thấy Kim Lân để nhân vật bà cụ Tứ quay về với chính cuộc đời mình để mà lo lắng cho hạnh phúc thực tại của hai con. Điều mà bà lo không phải là “sự hợp nhau hay không hợp nhau” giữa hai người mà điều mà người mẹ ấy lo lắng đó là, cái đói đang đe dọa hạnh phúc của con bà. Trong bóng tối, bà nghĩ về cuộc đời dài dằng dặc của đời mình, cuộc đời của những người thân để mà thấu hiểu, thương xót rồi “nghẹn lời” chỉ có dòng nước mắt chảy xuống ròng ròng.
– Hạnh phúc mới của con làm bà cụ Tứ được vui lây, bà động viên an ủi các con, nghĩ về một tương lai tươi sáng phía trước:
+ Khuôn mặt của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, bà xăm xắn quét dọn, giẫy những búi cỏ dại nham nhở trong vườn, thu dọn nhà cửa cho quang quẻ với hy vọng đời sẽ có cơ khấm khá.
+ Trong bữa ăn đầu tiên, mâm cơm ngày đói sao thảm hại: chỉ có một lùm rau chuối thái rối, một đãi muối, một niêu cháo lõng bõng toàn nước và món chính là chè khoán – cháo cám nhưng không khí gia đình thật ấm áp, tình chồng vợ, tình mẹ con- những nguồn động lực lớn lao ấy giúp họ tăng thêm sức mạnh để vượt qua thực tại.
+ Bà cụ Tứ toàn nói chuyện của tương lai, toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Bà lão bàn với con tính chuyện nuôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại sẽ có đàn gà cho mà xem. Câu chuyện của bà lão bất giác làm cho ta nhớ lại bài ca dao miền Trung- mười cái trứng. Cũng giống như tất cả những người bình dân xưa, bà lão đang gieo vào lòng các con bà niềm lạc quan, niềm tin và hi
vọng. Từ đàn gà mà có tất cả. Khát vọng sống bật lên ngay cả trong hoàn cảnh khốn cùng nhất “chớ than phận khó ai ơi- Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”.
– Song niềm vui của bà cụ Tứ cũng thật tội nghiệp. Miếng cháo cám đắng chát và tiếng trống thúc thuế dồn dập vội vã đưa bà cụ Tứ trở về với thực tại với tiếng nói xen lẫn cả hơi thở dài trong lo lắng: “Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống được qua được đâu các con ạ”! Và bà lại khóc, tình thương con lại hiện hình qua những giọt nước mắt lặng lẽ tuôn rơi.
Với sự thấu hiểu, với sự đồng cảm, Kim Lân đã dựng lên hình ảnh bà cụ Tứ- người mẹ thương con, nhân hậu, bao dung. Trong hoàn cảnh đói nghèo, bà vẫn dang rộng cánh tay đón nhận người con dâu mặc dù trong lòng còn nhiều xót xa, tủi cực, vẫn gieo vào lòng các con ngọn lửa sống trong hoàn cảnh tối tăm của xã hội lúc bấy giờ.
6. Giá trị hiện thực, nhân đạo
6.1. Giá trị hiện thực:
– Truyện đã dựng lại một cách chân thực những ngày tháng bi thảm trong lịch sử dân tộc, đó là khoảng thời gian diễn ra nạn đói năm 1945 :
+ Cái chết đeo bám, bủa vây khắp mọi nơi.
+ Dòng thác người đói vật vờ như những bóng ma.
+ Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư từ lúc nào.
+ Âm thanh của tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết.
+ Xóm ngụ cư, với những khuôn mặt hốc hác, u tối.
+ Cái đói hiện lên trong từng nếp nhà rúm ró, xẹo xệch, rách nát.
+ Cái đói hiện hình trên khuôn mặt của chị vợ nhặt.
+ Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại.
– Truyện phơi bày bản chất tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhận đã gây ra nạn đói năm 1945.
– Tuy nhiên, còn có một hiện thực được phản ánh trong tác phẩm: hiện thực mang tính xu thế, đó là tấm lòng của người dân khi đến với cách mạng.
6.2. Giá trị nhân đạo
+ Thái độ đồng cảm xót thương với số phận của người lao động nghèo khổ.
+ Lên án tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp.
+ Trân trọng tấm lòng nhân hậu, niềm khao khát hạnh phúc bình dị những người lao động nghèo.
+ Dự báo cho những người nghèo khổ con đường đấu tranh để đổi đời, vươn tới tương lai tươi sáng.
7. Nghệ thuật
– Xây dựng tình huống truyện độc đáo.
– Lối trần thuật tự nhiên, hấp dẫn làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách nhân vật.
– Tạo không khí và dựng thoại rất hấp dẫn, ấn tượng.
– Nhân vật được khắc hoạ sinh động đặc biệt là ngòi bút miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế.
– Ngôn ngữ : Bình dị, đời thường nhưng có chắt lọc kỹ lưỡng, có sức gợi và đậm chất Bắc Bộ.
8. Chủ đề
Qua truyện “Vợ nhặt”, Kim Lân muốn khẳng định : trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, ngay cả khi cái chết liền kề, những người dân lao động nghèo khổ, lương thiện vẫn yêu thương, đùm bọc lấy nhau, vẫn khát khao mái ấm hạnh phúc gia đình và hy vọng vào một cuộc sống mới tốt đẹp hơn

Đề thi thử đại học môn văn bài: RỪNG Xà Nu

Đề thi thử đại học môn văn 2016 khối D 2
1. Hoàn cảnh sáng tác
– Tác phẩm được viết năm 1965 khi giặc Mĩ đổ quân ào ạt vào bãi biển Chu Lai – Quảng Ngãi. Đó là lúc nhà văn muốn viết một bài “Hịch tướng sĩ” thời đánh Mĩ để động viên, cổ động nhân dân bước vào cuộc kháng chiến chống Mĩ.
– Truyện được đăng trên tạp chí Văn nghệ quân giải phóng miền Trung Trung Bộ, sau đó được in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc.
2.Tóm tắt

Mở đầu truyện là cảnh rừng xà nu bạt ngàn đứng trong “tầm đại bác ”của giặc đang ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho làng Xôman. Sau 3 năm đi lực lượng, Tnú được cấp trên cho phép về thăm làng một đêm. Bé Heng nay đã trở thành một giao liên chững chạc, nhanh nhẹn. Dít nay đã trở thành bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội vững vàng. Đêm hôm đó, cụ Mết đã kể cho cả dân làng nghe về cuộc đời Tnú. Hồi đó Mĩ Diệm khủng bố gắt gao, được anh Quyết dìu dắt Tnú cùng Mai tham gia nuôi giấu cán bộ cách mạng từ nhỏ. Giặc bắt anh, sau 3 năm anh lại vượt ngục Kontum trở về. Lúc này anh Quyết đã hi sinh, Tnú lấy Mai. Anh tiếp tục cùng dân làng mài giáo mác chuẩn bị chiến đấu. Giặc nghe tin, chúng về làng càn quét, khủng bố. Kẻ thù bắt vợ con anh, tra tấn tàn bạo ngay trước mắt anh. Căm hờn cháy bỏng, anh đã nhảy xổ ra giữa bọn lính nhưng cũng không cứu được mẹ con Mai. Giặc bắt anh, quấn giẻ tẩm nhựa xà nu đốt mười đầu ngón tay anh. Cụ Mết cùng thanh niên trong làng đã nổi dậy giết sạch bọn lính cứu Tnú. Sau đó anh gia nhập lực lượng quân giải phóng. Câu chuyện kết thúc bằng cảnh cụ Mết và Dít tiễn Tnú trở lại đơn vị, trước mắt họ là những cánh rừng xà nu nối tiếp đến tận chân trời.
3. Nhan đề
-Nhan đề là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Hình ảnh rừng xà nu là linh hồn của tác phẩm. Cảm hứng chủ đạo và dụng ý nghệ thuật của nhà văn được khơi nguồn từ hình ảnh này.
– Rừng xà nu là hình ảnh trung tâm có vẻ đẹp riêng, gắn bó mật thiết với cuộc sống vật chất và tinh thần của người dân Tây Nguyên, biểu tượng cho những phẩm chất cao đẹp của con người Tây Nguyên: sức sống mãnh liệt, kiên cường, bất khuất, khao khát tự do.
– Nhan đề còn gợi chủ đề, cảm hứng sử thi cho truyện ngắn.
4. Hình tượng cây xà nu
* Vị trí xuất hiện : nhan đề, đầu và cuối tác phẩm, xuất hiện trong sự đối chiếu so sánh với các nhân vật ở trong truyện.
* Nghĩa thực : Đây là một loài cây có thật ở vùng đất Tây Nguyên.
* Nghĩa biểu tượng :
– Cây xà nu gắn bó với cuộc sống con người Tây Nguyên:
+ Cây xà nu có mặt trong đời sống hằng ngày của người dân làng Xôman.
+ Cây xà nu tham dự vào những sự kiện trọng đại của dân làng Xôman.
+ Cây xà nu gắn với cuộc sống của người dân làng Xôman đến mức nó đã thấm sâu vào nếp suy nghĩ và cảm xúc của họ, cụ Mết nói về cây xà nu với tất cả tình cảm yêu thương, gần gũi xen lẫn tự hào “không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”. Cây xà nu đã trở thành một phần máu thịt trong đời sống vật chất và tinh thần của mảnh đất này.
– Cây xà nu tượng trưng cho số phận và phẩm chất của con người Tây Nguyên trong chiến tranh cách mạng.
+ Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù tượng trưng cho những mất mát, đau thương vô bờ mà dân làng Xôman nói riêng (anh Xút, bà Nhan, mẹ con Mai…) và đồng bào Tây Nguyên nói chung đã phải trải qua trong cuộc chiến đấu.
+ Đặc tính ham ánh sáng của cây xà nu tượng trưng cho niềm khát khao tự do, lòng tin vào lý tưởng cách mạng của người dân Tây Nguyên, của đồng bào miền Nam trong cuộc kháng chiến.
+ Khả năng sinh sôi mãnh liệt của cây xà nu gợi nghĩ đến sự tiếp nối của nhiều thế hệ người dân Tây Nguyên (cụ Mết, Tnú, Mai, Dít, Heng) đoàn kết bên nhau trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ.
+ Sự tồn tại kỳ diệu của rừng xà nu qua những hành động hủy diệt của kẻ thù tượng trưng cho sức sống bất diệt, sự bất khuất, kiên cường và sự vươn lên mạnh mẽ của con người Tây Nguyên trong cuộc chiến mất còn với kẻ thù.
– Nghệ thuật miêu tả:
+ Kết hợp miêu tả cụ thể lẫn khái quát, khi dựng lên hình ảnh cả rừng xà nu, khi đặc tả cận cảnh một số cây
+ Phối hợp cảm nhận nhiều giác quan trong việc miêu tả những cây xà nu với vóc dáng tràn đầy sức lực, tràn trề mùi nhựa thơm, ngời xanh giữa ánh nắng
+ Hình tượng cây xà nu vừa hiện thực lại vừa mang đậm ý nghĩa biểu tượng. Miêu tả cây xà nu trong sự so sánh đối chiếu thường xuyên với con người. Các hình thức ẩn dụ, nhân hóa, tượng trưng đều được vận dụng nhằm thể hiện sống động, hùng vĩ, khoáng đạt của thiên nhiên đồng thời gợi ra nhiều suy tưởng sâu xa về con người, về đời sống.
+ Hình ảnh cây xà nu xuất hiện ở đầu tác phẩm rồi kết thúc tác phẩm lại hiện ra cánh rừng xà nu bạt ngàn. Đây là một kết cấu vòng tròn. Kết cấu ấy cho phép ta nghĩ : cây xà nu không chỉ là tượng trưng cho một làng Xô Man nhỏ bé hay cho một vùng núi rừng Tây Nguyên. Có thể đó còn là biểu tượng của cả miền Nam, của cả dân tộc Việt Nam trong những tháng năm chống đế quốc Mĩ.
5. Hình tượng nhân vật Tnú
– Tnú là người có tính cách trung thực, gan góc, dũng cảm, mưu trí:
+ Giặc giết bà Nhan, anh Xút nhưng Tnú (lúc bấy giờ còn nhỏ) không sợ. Tnú vẫn cùng Mai xung phong vào rừng nuôi giấu cán bộ.
+ Học chữ thua Mai, Tnú đập vỡ bảng, lấy đá đập vào đầu đến chảy máu.
+ Khi đi liên lạc không đi đường mòn mà “xé rừng mà đi”, không lội chỗ nước êm mà “lựa chỗ thác mạnh vượt băng băng như con cá kình”. Bởi theo Tnú những chỗ nguy hiểm giặc “không ngờ” đến.
+ Bị giặc phục kích bắt, bị tra tấn dã man nhưng Tnú quyết không khai. Khi bọn giặc kéo về làng, bắt Tnú khai cộng sản ở đâu anh đặt tay lên bụng dõng dạc nói “cộng sản ở đây này”.

– Tnú là người có tính kỷ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng
+ Tham gia lực lượng vũ trang, nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng khi được phép của cấp trên mới về thăm.
+ Tính kỉ luật cao trong mối quan hệ với cách mạng biểu hiện thành lòng trung thành tuyệt đối: khi bị kẻ thù đốt mười đầu ngón tay, ngọn lửa như thiêu đốt gan ruột nhưng Tnú không kêu nửa lời, anh luôn tâm niệm lời dạy của anh Quyết : “người cộng sản không thèm kêu van”.
– Một trái tim yêu thương và sục sôi căm giận
+ Tnú là một người sống rất nghĩa tình : Tnú đã tay không xông ra cứu vợ con. Động lực ghê gớm ấy chỉ có thể được khơi nguồn từ trái tim cháy bỏng ngọn lửa yêu thương và ngọn lửa căm thù. Tnú là con người tình nghĩa với buôn làng: anh lớn lên trong sự đùm bọc yêu thương của người dân làng Xôman.
+ Lòng căm thù ở Tnú mang đậm chất Tây Nguyên: Tnú mang trong tim ba mối thù : Thù của bản thân; Thù của gia đình; Thù của buôn làng
– Ở Tnú, hình tượng đôi bàn tay mang tính cách, dấu ấn cuộc đời
+ Khi lành lặn : đó là đôi bàn tay trung thực, nghĩa tình (bàn tay cầm phấn viết chữ anh Quyết dạy cho ; bàn tay cầm đá đập vào đầu mình để tự trừng phạt vì học hay quên chữ …
+ Khi bị thương : đó là chứng tích của một giai đoạn đau thương, của thời điểm lòng căm hận sôi trào “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy trong bụng”. Đó cũng là bàn tay trừng phạt, bàn tay quả báo khi chính đôi bàn tay tàn tật ấy đã bóp chết tên chỉ huy đồn giặc trong một trận chiến đấu của quân giải phóng.
– Hình tượng Tnú điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên làm sáng tỏ chân lí của thời đại đánh Mĩ : “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”.
+ Bi kịch của Tnú khi chưa cầm vũ khí là bi kịch của người dân STrá khi chưa giác ngộ chân lý (bà Nhan, anh Xút). Tnú là người có thừa sức mạnh cá nhân nhưng anh vẫn thất bại đau đớn khi không có vũ khí. Với bàn tay không có vũ khí trước kẻ thù hung bạo anh đã không bảo vệ được vợ con và bản thân.
+ Tnú chỉ được cứu khi dân làng Xôman đã cầm vũ khí đứng lên. Cuộc đời bi tráng của Tnú là sự chứng minh cho chân lí : phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng.
+ Con đường đấu tranh của Tnú từ tự phát đến tự giác cũng là con đường đấu tranh đến với cách mạng của làng Xôman nói riêng và người dân Tây Nguyên nói chung.
Tóm lại, câu chuyện về cuộc đời và con đường đi lên của Tnú mang ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và con đường của các dân tộc Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Vẻ đẹp và sức mạnh của Tnú là sự kết tinh vẻ đẹp và sức mạnh của con người Tây Nguyên nói riêng và người Việt Nam nói chung trong thời đại đấu tranh cách mạng.
6. Cụ Mết, Dít, bé Heng
– Cụ Mết : “Pho sử sống” của làng Xô man; Người giữ lửa truyền thống của cả bộ tộc, người kết nối quá khứ và hiện tại, hôm qua và hôm nay; “thủ lĩnh” tinh thần, người định hướng con đường đi theo cách mạng cho cả bộ tộc; nhân vật tiêu biểu cho tính cách quật cường, bất khuất của dân làng Xô Man nói riêng, người Tây Nguyên nói chung, thâm chí rộng ra là cả dân tộc.
Nếu ví làng Xôman như một khu rừng Xà nu đại ngàn, thì cụ Mết chính là cây đại thụ.
– Dít : một cô bé gan dạ, dũng cảm, sớm tiếp bước các thế hệ đi trước khi đến với cách mạng; tiêu biểu thế hệ trẻ của làng Xô man trưởng thành trong cuộc kháng chiến; Cùng với Tnú, Dít là lực lượng chủ chốt của cuộc đấu tranh ngày hôm nay, đó là sự tiếp nối tự giác và quyết liệt.Cũng như Tnú, Mai và nhiều thanh niên khác trong làng, Dít là một trong “những cây xà nu đã trưởng thành” của “đại ngàn Xô man” hùng vĩ.
– Bé Heng: Một cậu bé hồn nhiên, ngộ nghĩnh đáng yêu; Sớm tham gia vào cuộc kháng chiến chung của cả làng; Là hình ảnh tiêu biểu về một thế hệ đánh Mĩ mới, sẽ tiếp bước một cách mạnh mẽ những Tnú, Mai, Dít; Trong “Rừng xà nu”, bé Heng chính là một trong những “cây xà nu con” “mới mọc lên”.
7. Biểu hiện của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn
+ Đề tài: Viết về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ; số phận và con đường giải phóng của dân làng Xôman) không chỉ là vấn đề sinh tử của một ngôi làng ở Tây Nguyên mà còn là của cả dân tộc Việt Nam.
+ Hệ thống nhân vật mà điển hình là Cụ Mết, Tnú, Dít: đều là những cá nhân anh hùng kết tinh cao độ vẻ đẹp và phẩm chất của cả cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên, thậm chí của con người Việt Nam trong chiến đấu (yêu nước, căm thủ giặc sâu sắc, gan dạ, dũng cảm, kiên cường, trung thành với cách mạng…
+ Không gian nghệ thuật: rộng lớn.
+ Cách kể chuyện: Chuyện được kể bên bếp lửa qua lời kể của một già làng, đông đảo dân làng từ già đến trẻ đều đang quây quần bên bếp lửa để lắng nghe, không khí rất trang nghiêm
+ Xây dựng thành công những hình tượng nghệ thuật độc đáo – hình tượng cây xà nu, rừng xà nu không chỉ thể hiện tư tưởng chủ đề, đem lại chất sử thi mà còn tạo nên giá trị lãng mạn bay bổng cho thiên truyện.
+ Giọng điệu: ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng; ngôn ngữ trang trọng, hào hùng.
8. Đặc sắc nghệ thuật
+ Tô đậm không khí, màu sắc đậm chất Tây Nguyên (bức tranh thiên nhiên; ngôn ngữ, tâm lí, hành động của nhân vật)

+ Xây dựng thành công hai tuyến nhân vật đối lập gay gắt: giữa kẻ thù (thằng Dục) với lực lượng cách mạng, đại diện là các thế hệ nối tiếp nhau vừa có những nét cá tính sống động vừa mang những phẩm chất có tính khái quát, tiêu biểu (cụ Mết, Tnú, Dít,…)
+ Khắc họa thành công hình tượng cây xà nu vừa hiện thực vừa mang đậm ý nghĩa biểu tượng, đem lại chất sử thi và lãng mạn, bay bổng cho thiên truyện.
+ Nghệ thuật trần thuật sinh động (đan cài câu chuyện về cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man; xen kẽ thời gian kể chuyện và thời gian của các sự kiện; phối hợp các điểm nhìn,…) tạo nên giọng điệu, âm hưởng phù hợp với không gian Tây Nguyên.
9. Chủ đề
Rừng xà nu là câu chuyện về quá trình trưởng thành trong nhận thức cách mạng của một con người, cũng như của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Chân lí tất yếu mà họ nhận ra là: chỉ có dùng bạo lực cách mạng mới có thể đè bẹp được bạo lực phản cách mạng.

Đề thi thử đại học bài : Vợ Chồng A Phủ

Đề thi thử đại học môn văn 2016 khối D 3

1. Xuất xứ – Hoàn cảnh ra đời
– Vợ chồng A Phủ (1952) là một trong ba tác phẩm (Vợ chồng A Phủ, Mường Giơn và Cứu đất cứu mường) in trong tập Truyện Tây Bắc.
– Tác phẩm là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm 1952. Đây là chuyến đi thực tế dài tám tháng sống với đồng bào các dân tộc thiểu số từ khu du kích trên núi cao đến những bản làng mới giải phóng của nhà văn.
– Vợ chồng A Phủ gồm có hai phần, phần đầu viết về cuộc đời của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, phần sau viết về cuộc sống nên vợ nên chồng, tham gia cách mạng của Mị và A Phủ ở Phiềng Sa. Đoạn trích là phần đầu của truyện ngắn.
2. Tóm tắt truyện
Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi trai gái người Mèo là Mị và A Phủ. Mị là một cô gái trẻ, đẹp. Cô bị bắt làm vợ A Sử – con trai thống lý Pá Tra để trừ một món nợ truyền kiếp của gia đình. Lúc đầu, suốt mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc, Mị định ăn lá ngón tự tử nhưng vì thương cha nên Mị không thể chết. Mị đành sống tiếp những ngày tủi cực trong nhà thống lí. Mị làm việc quần quật khổ hơn trâu ngựa và lúc nào cũng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Mùa xuân đến, khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha Mị nhớ lại mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi nhưng A Sử bắt gặp và trói đứng Mị trong buồng tối.
A Phủ là một chàng trai nghèo mồ côi, khoẻ mạnh, lao động giỏi. Vì đánh lại A Sử nên bị bắt, bị đánh đập, phạt vạ rồi trở thành đầy tớ không công cho nhà thống lí. Một lần, do để hổ vồ mất một con bò khi đi chăn bò ngoài bìa rừng nên A Phủ đã bị thống lí trói đứng ở góc nhà. Lúc đầu, nhìn cảnh tượng ấy, Mị thản nhiên nhưng rồi lòng thương người cùng sự đồng cảm trỗi dậy, Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ rồi theo A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài…
3. Nhân vật Mị
3.1. Hình ảnh Mị trong đoạn văn mở đầu truyện
– Một cô gái âm thầm, lẻ loi, sống như gắn vào những vật vô tri, vô giác : “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”.
– Một cô con dâu nhà thống lý quyền thế, giàu sang “nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện” nhất làng nhưng lúc nào cũng “cúi mặt”, “buồn rười rượi”.
Hình ảnh của Mị hoàn toàn tương phản với cái gia đình mà Mị đang ở. Sự tương phản ấy báo hiệu một cuộc đời không bằng phẳng, một số phận nhiều uẩn khúc và một bi kịch của cõi nhân thế nơi miền núi cao Tây Bắc.
3.2. Cuộc đời, số phận, tính cách của nhân vật Mị
a. Trước hết, Mị là cô gái có ngoại hình đẹp và nhiều phẩm chất tốt, đáng lẽ có thể sống một cuộc sống hạnh phúc:
+ Một cô gái trẻ đẹp và có tài thổi sáo.
+ Một cô gái chăm làm, sẵn sàng lao động, không quản ngại khó khăn.
+ Một cô gái yêu đời, yêu cuộc sống tự do, không ham giàu sang phú quý.
+ Một người con hiếu thảo.
Có thể khẳng định, Mị là một hình tượng đẹp về người thiếu nữ Tây Bắc. Ở Mị, toát lên cái đẹp vừa tự nhiên, giản dị vừa phóng khoáng, thẳm sâu như thiên nhiên núi rừng miền Tây Tổ quốc. Tuy nhiên, trái với những gì Mị đáng được hưởng, bi kịch đã đến với Mị một cách phũ phàng bởi cường quyền bạo lực và thần quyền hủ tục.
b. Cô Mị với kiếp “con dâu gạt nợ” ở nhà thống lý Pá Tra :
– “Con dâu gạt nợ” :
Bề ngoài là con dâu vì Mị là vợ A Sử, nhưng bên trong Mị chỉ là một thứ gán nợ, bắt nợ để bù đắp cho khoản tiền mà bố mẹ Mị đã vay của nhà thống lý Pá Tra nhưng chưa trả được. Điều đau đớn trong thân phận của Mị là ở chỗ : nếu chỉ là con nợ thay cho bố mẹ thì Mị hoàn toàn có thể hi vọng vào một ngày nào đó sẽ được giải thoát sau khi món nợ đã được thanh toán (bằng tiền, bằng vật chất hoặc công lao động). Nhưng Mị lại là con dâu, bị cướp về và “cúng trình ma” ở nhà thống lý. Linh hồn Mị đã bị con “ma” ấy “cai quản”. Đến hết đời, dù món nợ đã được trả, Mị cũng sẽ không bao giờ được giải thoát, được trở về với cuộc sống tự do. Đây chính là bi kịch trong cuộc đời Mị.
– Đời “con dâu gạt nợ” của Mị ở nhà thống lý là một quãng đời thê thảm, tủi cực, sống mà như đã chết. Ở đó :
+ Mị dường như đã bị tê liệt cả lòng yêu đời, yêu sống lẫn tinh thần phản kháng.
+ Mị chỉ là một công cụ lao động.
+ Thân phận của Mị không bằng con trâu, con ngựa trong nhà.
+ Mị âm thầm như một cái bóng.
+ Mị như một tù nhân của chốn địa ngục trần gian, đã mất tri giác về cuộc sống.
Nhà văn không chỉ gián tiếp tố cáo sự áp bức bóc lột của bọn địa chủ phong kiến miền núi mà còn nói lên một sự thật đau xót : dưới ách thống trị của cường quyền bạo lực và thần quyền hủ tục, người dân lao động miền núi Tây Bắc bị chà đạp một cách tàn nhẫn về tinh thần đến mức tê liệt cảm giác về sự sống, mất dần ý niệm về cuộc đời, từ những con người có lòng ham sống mãnh liệt trở thành những người sống mà như đã chết, tẻ nhạt và vô thức như những đồ vật trong nhà. Một sự hủy diệt ý thức sống của con người thật đáng sợ !
c. Sức sống tiềm tàng mãnh liệt (đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài)
– Những tác động của ngoại cảnh :
+ Trước hết là khung cảnh mùa xuân.
+ Tiếp đó là “tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi” – tiếng sáo gọi bạn tình “vọng” vào tâm hồn Mị “thiết tha bổi hổi”.
+ Bữa cơm Tết cúng ma đón năm mới rộn rã “chiêng đánh ầm ĩ” và bữa rượu tiếp ngay bữa cơm bên bếp lửa.
Những biểu hiện của ngoại cảnh ấy không thể không tác động đến Mị, nhất là tiếng sáo. Bởi vì ngày trước Mị thổi sáo giỏi, bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Tiếng sáo gọi bạn tình, “tiếng sáo rủ bạn đi chơi” chính là tiếng ca của hạnh phúc, là biểu tượng của tình yêu đôi lứa. Nó đã xuyên qua hàng rào lạnh giá bên ngoài để “vọng” vào miền sâu thẳm trong tâm hồn Mị, đánh thức cái sức sống vẫn được bảo lưu đâu đó trong cõi lòng người thiếu nữ Tây Bắc này.
– Diễn biến tâm lý, hành động
+ Đầu tiên, Mị “ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”.
+ Trong không khí của một đêm tình mùa xuân, trong cái nồng nàn của bữa rượu ngày Tết, “Mị cũng uống rượu”.
+ Mị “thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Mị cảm thấy mình “trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.
+ Mị cảm thấy rõ hơn bao giờ hết cái vô nghĩa lý của cuộc sống thực tại : “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”.
+ “Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo”. Tiếng sáo như hối thúc Mị “quấn lại tóc”, “với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách” để “đi chơi”. Những biến động mạnh mẽ trong tâm hồn Mị đã chuyển hóa thành hành động thực tế và hành động này dẫn đến những hành động tiếp theo không thể ngăn được.
Rõ ràng, cái khát vọng sống, niềm khát khao hạnh phúc vẫn được bảo lưu ở đâu đó trong sâu thẳm tâm hồn nhân vật Mị. Nó giống như hòn than vẫn đang âm ỉ cháy dưới lớp tro tàn nguội lạnh và chỉ cần một ngọn gió thổi tới là nó có thể bùng cháy một cách mãnh liệt. Những tác động của ngoại cảnh là không nhỏ nhưng cái sức mạnh tiềm ẩn, không thể nào dập tắt của con người mới là điều mấu chốt quyết định sức sống của Mị, của mỗi cá nhân.
d. Sức phản kháng táo bạo ( hành động cởi dây trói cho A Phủ )
Dù bị dập vùi một cách tàn nhẫn nhưng không vì thế mà lòng ham sống và khát khao hạnh phúc trong Mị bị triệt tiêu. Trái lại, trong những hoàn cảnh đặc biệt nó còn bừng dậy một cách mạnh mẽ và chuyển hóa thành sức phản kháng táo bạo. Có thể thấy rõ điều đó qua diễn biến tâm lí và hành động của Mị trong đêm cô cứu A Phủ rồi cùng anh bỏ trốn khỏi Hồng Ngài :
+ Ban đầu, trước cảnh tượng A Phủ bị trói, Mị hoàn toàn dửng dưng.
+ Nhưng sau đó, khi chứng kiến dòng nước mắt chảy xuống gò má đã xạm đen lại của A Phủ, Mị đã đồng cảm, thương mình và thương người.
+ Thương mình, thương người, Mị càng nhận rõ tội ác của cha con thống lí.
+ Dù trong lòng vẫn có những sợ hãi nhưng Mị đã cứu A Phủ rồi cùng A Phủ bỏ trốn khỏi Hồng Ngài.
Đây là hệ quả tất yếu sau những gì đã diễn ra ở Mị. Từ đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đến đêm cứu A Phủ là một hành trình tìm lại chính mình và tự giải thoát khỏi những “gông xiềng” của cả cường quyền bạo lực và thần quyền lạc hậu. Đó cũng là sự khẳng định ý nghĩa của cuộc sống và khát vọng tự do cháy bỏng của người dân lao động Tây Bắc.
4. Nhân vật A Phủ
4.1. Một số phận éo le
– Sớm mồ côi cha mẹ (cha mẹ chết trong một trận dịch đậu mùa).
– Nghèo, không lấy nổi vợ vì phép làng và tục lệ cưới xin ngặt nghèo.
4.2. Một cá tính mạnh mẽ, một hình ảnh đẹp về người lao động miền núi Tây Bắc
– Có ý chí và nghị lực sống, A Phủ đã vượt qua mọi cơ cực để trở thành chàng trai Mông khỏe mạnh, tháo vát, trở thành niềm mơ ước của nhiều cô gái trong bản.
– Gan góc từ bé, ham lao động, A Phủ không quản ngại những công việc nặng nhọc, khó khăn, nguy hiểm.
– Không sợ cường quyền, sẵn sàng trừng trị kẻ xấu.
– Ham sống, yêu tự do, có sức sống tiềm tàng mãnh liệt.
4.3. Một nạn nhân của giai cấp thống trị phong kiến miền núi tàn bạo
– Chỉ vì đánh con quan mà bị phạt rất nặng, bị làng “bắt vạ”, trở thành một kiểu “nô lệ” trong nhà thống lí Pá Tra.
– Chỉ vì lỡ để hổ bắt mất một con bò mà bị cha con thống lí bắt trói, hành hạ dã man, có thể phải trả giá bằng cả tính mạng.
Nhân vật A Phủ vừa là bằng chứng sống về tội ác của giai cấp thống trị miền núi Tây Bắc vừa là một hình ảnh đẹp, tiêu biểu của người dân lao động ở một vùng núi cao nước ta.
5. Giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm
5.1. Giá trị hiện thực
– Truyện miêu tả chân thực số phận nô lệ cực khổ của người dân lao động nghèo Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn cường quyền phong kiến miền núi (dẫn chứng Mị, A Phủ).
– Truyện phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp phong kiến thống trị ở miền núi ( dẫn chứng cha con thống lí Pá Tra)
– Truyện đã tái hiện một cách sống động vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên và phong tục, tập quán của người dân miền núi Tây Bắc (cảnh mùa xuân, cảnh xử kiện A Phủ )
5.1. Giá trị nhân đạo.
– Truyện thể hiện lòng yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của người lao động nghèo miền núi ( dẫn chứng nhân vật Mị, A Phủ)
– Phê phán quyết liệt những thế lực chà đạp con người (cường quyền và thần quyền).
– Truyện khẳng định niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc cháy bỏng của con người. Dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến mức nào, con người cũng không mất đi khát vọng sống tự do và hạnh phúc (Dẫn chứng nhân vật Mị- trong đêm tình mùa xuân, cởi trói A Phủ)
– Thông qua câu chuyện, nhà văn đã chỉ ra cho người dân miền núi Tây Bắc nói riêng, những số phận khổ đau nói chung con đường tự giải thoát khỏi những bất công, con đường làm chủ vận mệnh của mình ( dẫn chứng hành động cởi trói cho A Phủ, cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài).
6. Đặc sắc nghệ thuật
a. Nghệ thuật kể chuyện
– Cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên mà ấn tượng. Cách dẫn dắt tình tiết khéo làm cho mạch truyện phát triển và vận động liên tục, biến đổi hấp dẫn mà không rối, không trùng lặp.
– Ngôn ngữ kể chuyện sinh động, chọn lọc và sáng tạo, lối văn giàu tính tạo hình thấm đẫm chất thơ.
b. Nghệ thuật miêu tả tâm lý và phát triển tính cách nhân vật
– Nhà văn ít tả hành động mà chủ yếu khắc họa tâm tư, nhiều khi mới chỉ là các ý nghĩ chập chờn trong tiềm thức nhân vật.
c. Nghệ thuật tả cảnh đặc sắc
– Cảnh thiên nhiên thơ mộng được miêu tả bằng ngôn ngữ giàu chất thơ và chất tạo hình (cảnh mùa xuân về trên núi Hồng Ngài).
– Cảnh miền núi với những nét sinh hoạt phong tục riêng, sinh động (Cảnh đêm tình mùa xuân, cảnh cúng trình ma, cảnh xử kiện).
7. Chủ đề
Tác phẩm đặt ra vấn đề số phận con người – những con người dưới đáy xã hội – những con người bị tước đoạt hết tài sản, bị bóc lột sức lao động và bị xúc phạm nặng nề về nhân phẩm. Giải quyết vấn đề số phận con người, Tô Hoài đã thức tỉnh họ, đưa họ đến với cách mạng và cho họ một cuộc sống mới.

Đề thi thử đại học bài : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (Nguyễn Tuân)

Đề thi thử đại học môn văn 2016 khối D 4

1.Hoàn cảnh sáng tác :
– Người lái đò sông Đà là một áng văn trong tập tùy bút Sông Đà (1960) – thành quả nghệ thuật đẹp đẽ của Nguyễn Tuân trong chuyến đi gian khổ và hào hùng tới miền Tây Bắc rộng lớn của Tổ quốc. Sông Đà gồm 15 thiên tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo.
– Mục đích chính của chuyến đi tới Tây Bắc của nhà văn đồng thời cũng là cảm hứng chủ đạo của cả tập bút ký là tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và nhất là chất vàng mười – “thứ vàng đã được thử lửa” ở tâm hồn những con người lao động, chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng.
2. Vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của hình tượng con sông Đà
* Vẻ hung bạo, dữ dằn :
– Cảnh đá bờ sông “dựng vách thành”, có quãng lòng sông bị thắt hẹp lại như cái yết hầu.
– Những quãng dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…
– Những “hút nước” chết người luôn sẵn sàng nhấn chìm và đập tan chiếc thuyền nào lọt vào.
– Tiếng nước thác sông Đà với nhiều cung bậc dữ dội khác nhau
– Quãng sông Đà với bao đá nổi, đá chìm, phối hợp cùng sóng thác như dàn thạch trận, lập nhiều phòng tuyến… sẵn sàng “ăn chết” con thuyền và người lái đò.
* Vẻ trữ tình, thơ mộng :
– Từ trên cao nhìn xuống, dòng chảy uốn lượn của con sông như mái tóc của người thiếu nữ diễm kiều.
– Nhìn ngắm con sông từ nhiều thời gian, không gian khác nhau, Nguyễn Tuân đó phát hiện những sắc màu tươi đẹp và đa dạng của màu nước sông Đà. Nó biến đổi theo mùa, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng.
– “Nhìn sông Đà như một cố nhân”, nhà văn cảm nhận rõ nét cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân quen của con sông và nhất là cái chất thơ như ngấm vào trong từng cảnh sắc thiên nhiên sông Đà.
– Từ điểm nhìn của một khách hải hồ trên dòng sông, nhà văn đã quan sát và khắc họa những vẻ đẹp hết sức đa dạng và nên thơ của cảnh vật ven sông vừa hoang sơ nhuốm màu cổ tích vừa trù phú, tràn trề nhựa sống;…
Qua hình tượng sông Đà, Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu mến tha thiết đối với thiên nhiên đất nước. Với ông, thiên nhiên cũng là một tác phẩm nghệ thuật vô song của tạo hóa. Cảm nhận và miêu tả sông Đà, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ sự tài hoa, uyên bác và lịch lãm. Hình tượng sông Đà là phông nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp của người lao động trong chế độ mới.
3. Hình tượng người lái đò
– Là người tinh thạo trong nghề nghiệp
+ Ông lão nắm vững qui luật khắc nghiệt của dòng thác sông Đà “Nắm chắc quy luật của thần sông thần đá”.
+ Ông thuộc lòng những đặc điểm địa hình của Sông Đà “ nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào tất cả các luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”, Sông Đà “như một thiên anh hùng ca mà ông đò thuộc đến cả những cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”.
– Là người trí dũng tuyệt vời :Ông sẵn sàng đối mặt với thác dữ, chinh phục “cửa tử”, “cửa sinh”, vượt qua trận thuỷ chiến với đá chìm, đá nổi, với những trùng vi thạch trận và phòng tuyến đầy nguy hiểm. Ông lái đò vượt qua bằng những hành động táo bạo và chuẩn xác. Ông hiện lên như một vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm:
+ Ở trùng vây thứ nhất : thần sông dàn ra năm cửa đá thì có đến bốn cửa tử, cửa sinh duy nhất nằm sát bờ trái và huy động hết sức mạnh của sóng thác đánh vỗ mặt con thuyền. Luồng sóng hung tợn “liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Thậm chí còn đánh đòn tỉa, đánh đòn âm… nhưng người lái đò bình tĩnh giữ chắc mái chèo giúp con thuyền “khỏi bị hất khỏi bờm sóng trận địa phóng thẳng vào mình”. Ngay cả lúc bị trúng đòn hiểm, mặt méo bệch đi nhưng ông vẫn tỉnh táo chỉ huy con thuyền lướt đúng vào luồng sinh.
+ Ở trùng vây thứ 2, dòng sông đã thay đổi sơ đồ phục kích và cả chiến thuật. Vòng vây thứ 2 này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào. Cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Nhưng ông đò đã “nắm chắc quy luật của thần sông thần đá” nên lập tức cũng thay đổi chiến thuật theo, nhận ra cạm bẫy của bọn thuỷ quân nơi cửa ải nước này. Ông không né tránh mà đưa con thuyền cưỡi lên sóng thác”“cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. “Nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo vào cửa đá ấy”. Người lái đò tả xung, hữu đột như một chiến tướng dày dạn kinh nghiệm trận mạc có thừa lòng quả cảm đã đưa được con thuyền vượt qua tập đoàn cửa tử khiến cho những bộ mặt đá hung hăng dữ tợn phải xanh lè, thất vọng.
+ Ở trùng vây thứ 3, thạch trận ít cửa tử hơn nhưng bên phải bên trái đều là luồng chết cả, cửa sinh lại nằm giữa lòng sông và bọn đá hậu vệ canh giữ. Nhưng ông đò không hề bất ngờ trước mưu mô hiểm độc của bọn chúng, tiếp tục chỉ huy con thuyền vượt qua trùng vây thứ 3.
– Là người tài hoa nghệ sĩ :
+ Ông đối đầu với ghềnh thác cuồng bạo bằng sự tự tin, ung dung nghệ sĩ. Tay lái linh hoạt, khéo léo, tài hoa như một nghệ sĩ trên sông nước : “ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”, “Vút, vút…thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”. Dưới bàn tay chèo lái điêu luyện của ông con thuyền đã hoá thành con tuấn mã hiểu ý chủ- khi thì khéo léo né tránh luồng sóng dữ, khi thì phóng thẳng vào cửa đá có 3 tầng cổng “cánh mở, cánh khép”. Con thuyền như bay trong không gian, ông đò luôn nhìn thử thách bằng cái nhìn giản dị mà lãng mạn; bình tĩnh và hùng dũng ngay cả lúc bị thương.
+ nguyên nhân chiến thắng của ông lái đò: sự ngoan cường, dũng cảm và nhất là kinh nghiệm sông nước.
+ Sau cuộc vượt thác gian nan, ông đò lại có phong thái ung dung của một nghệ sĩ “Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nước ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh…”.
Đây là hình ảnh về một người lao động mới mang vẻ đẹp khác thường. Người lái đò hiện lên như là vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm, tài trí và luôn có phong thái ung dung pha chút nghệ sĩ. Ông chỉ huy cuộc vượt thác một cách tài tình, khôn ngoan và biết nhìn thử thách đó bằng cái nhìn giản dị mà không thiếu vẻ lãng mạn. Hình ảnh ông lái đò cho thấy Nguyễn Tuân đã tìm được nhân vật mới cho mình, những con người đáng trân trọng, đáng ngợi ca, không thuộc tầng lớp thượng lưu đài các một thời vang bóng mà là những người lao động bình thường- chất “vàng mười của Tây Bắc”. Qua hình tượng người lái đò sông Đà, nhà văn muốn phát biểu quan niệm : người anh hùng không phải chỉ có trong chiến đấu mà còn có trong cuộc sống lao động thường ngày.
– Đoạn văn tả trận thủy chiến, tập trung khắc họa hình tượng ông lái đò một lần nữa cho thấy sự uyên bác, lịch lãm của Nguyễn Tuân. ở đây có tri thức, có ngôn ngữ sống động của quân sự, thể thao, võ thuật, điện ảnh…
4. Nghệ thuật
– Những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị của tác giả.
– Ngôn ngữ đa dạng, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao.
– Câu văn có nhịp điệu, lúc thì hối hả, mau lẹ, khi thì chậm rãi, như tãi ra để diễn tả vẻ đẹp trữ tình rất nên thơ của con sông.
5. Chủ đề :
Qua hình tượng sông Đà và người lái đò, Nguyễn Tuân muốn thể hiện niềm yêu mến thiết tha với thiên nhiên đất nước và ngợi ca những con người lao động – chất vàng mười của cuộc sống.

Đề thi thử đại học bài : TÂY TIẾN ( Quang Dũng )

Đề thi thử đại học môn văn 2016 khối D 5

I.Tác giả Quang Dũng:
– Là nghệ sĩ đa tài : làm thơ , viết văn , vẽ tranh , soạn nhạc.
– Là nhà thơ nổi tiếng của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp.
– Hồn thơ : phóng khoáng , hồn hậu , lãng mạn , tài hoa – đặc biệt khi viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài ( Sơn Tây ) .
II. Tác phẩm:
1. Hoàn cảnh ra đời :
– Tây Tiến là một đơn vị bộ đội trong kháng chiến chống Pháp , thành lập năm 1947 ; Quang Dũng làm đại đội trưởng .
– Thành phần : đa phần là thanh niên Hà Nội hào hoa , lãng mạn .
– Đóng quân và hoạt động khá rộng ( Sơn La , Lai Châu , Hoà Bình , miền Tây Thanh Hoá và cả Sầm Nưa của Lào.
– Nhiệm vụ : phối hợp với quân đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng Pháp .
– Trung đoàn Tây Tiến chiến đấu trong điều kiện gian khổ , thiếu thốn về vật chất , bệnh sốt rét hoành hành dữ dội . Tuy vậy , họ sống lạc quan và chiến đấu anh dũng .
– Đoàn quân TâyTiến, sau thời gian hoạt động ở Lào trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52 .
– Khi Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác ở Phù Lưu Chanh, trong nỗi nhớ đơn vị cũ ông sáng tác bài thơ “ Nhớ Tây Tiến” vào cuối năm 1948 à Bài thơ ra đời trong nỗi nhớ trung đoàn Tây Tiến và núi rừng Tây Bắc trong những năm kháng chiến chống Pháp.
– Ban đầu có tên “ Nhớ Tây Tiến”à sau đổi thành “ Tây Tiến “ và in trong tập “ Mây đầu ô”.
2. Nội dung và nghệ thuật:
a. Nội dung:
– Bức tranh thiên nhiên vùng Tây Bắc tổ quốc ta vừa tráng lệ, hùng vĩ vừa nên thơ, trữ tình.
– Khẳng định, ca ngợi vẻ đẹp đậm chất bi tráng về hình ảnh người lính Tây Tiến: tâm hồn lãng mạn, khí phách anh hùng, lí tưởng cao cả Vẻ đẹp của chiến sĩ Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp.
– Thể hiện tình yêu, sự gắn bó, niềm tự hào của tác giả về trung đoàn Tây Tiến và quê hương Tây Bắc trong những năm kháng chiến chống Pháp.
* Đoạn 1: Nỗi nhớ của tác giả và con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến:
“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!…………Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
– Nỗi nhớ của tác giả:
Nhà thơ Quang Dũng gắn bó với trung đoàn Tây Tiến, gắn bó với núi rừng Tây Bắc trong những năm kháng chiến . Vì thế mà khi xa Tây Tiến, xa Tây Bắc – xa đơn vị bộ đội , xa vùng đất nhiều kỉ niệm kháng chiến tác giả nhớ nhung da diết:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
– Mở đầu bài thơ là lời gọi tha thiết , ngọt ngào. Tác giả gọi tên đơn vị “ Tây Tiến” , gọi tên con sông vùng Tây Bắc “ sông Mã” mà thân thiết , dạt dào cảm tình như gọi tên những người thân thương trong cuộc đời mình.Phải chăng trung đoàn Tây Tiến, núi rừng Tây Bắc gần gũi , thân thương với tác giả và khi xa thì Tây Bắc, Tây Tiến trở thành một “ mảnh tâm hồn” của tác giả.
– Tác giả rất thành công trong việc sử dụng nghệ thuật điệp từ “ nhớ “ và từ láy “ chơi vơi”, tác giả “ nhớ chơi vơi” nỗi nhớ ấy không xác định được hết đối tượng , nhớ sông Mã , nhớ Tây Tến, nhớ núi rừng Tây Bắc , … nhớ tất cả. Những nơi trung đoàn Tây Tiến đã đi qua, những đồng đội từng gắn bó,…tất cả đều trở thành kỉ niệm không thể nào quên.Chính vì thế mà khi xa Tây Tiến, xa Tây Bắc trong tâm hồn tác giả trào dâng nỗi nhớ da diết, mãnh liệt.
– Con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến: Qua nỗi nhớ da diết của nhà thơ , con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến nơi Tây Bắc hiện lên khá rõ nét.
– Trước hết là những vùng đất mà đoàn quân đã đi qua, gắn bó, mỗi vùng đất với một nét riêng không dễ gì quên:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
….
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
…..
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
……
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
+ Ở Sài Khao thì sương nhiều như muốn che lấp cả đoàn quân khiến cho đoàn quân mỏi mệt Đó cũng chính là những gian khổ mà chiến sĩ phải vượt qua.
+ Nếu như ở Sài Khao đoàn quân phải vất vả, mệt nhọc thì khi về Mường Lát thật ấm áp, lãng mạn bởi “ hoa về trong đêm hơi”. “ Hoa”, “ hơi” là hai hình ảnh làm cho bức tranh Mường Lát thêm gần gũi, trìu mến.
+ Về Pha Luông thì mưa rừng thật thú vị, vừa hành quân vừa ngắm cảnh vật dưới mưa thật lãng mạn, trữ tình.
+ Có lẽ “ấm lòng” nhất là khi hành quân về vùng Mai Châu , hương vị đặc sản “ nếp xôi”của vùng đất ấy khiến các anh chiến sĩ dẫu có xa cũng không thể nào quên.
+ Còn ghê rợn nhất là khi về Mường Hịch, cái âm thanh phát ra từ núi rừng ấy thật là khiến cho con người cảm giác bất an : “cọp trêu người”.
Mỗi vùng đất trung đoàn Tây Tiến đi qua đều để lại dấu ấn trong tâm hồn, tuy có nhiều gian nan, vất vả nhưng cũng rất lãng mạn, trữ tình.
– Con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến được tác giả khái quát rõ nhất qua đoạn thơ:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
…..
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Đoạn thơ ngắn nhưng thể hiện nét bút tài hoa của Quang Dũng. Ông thành công trong việc sử dụng ngôn từ, hình ảnh, bút pháp,…
+ Hàng loạt từ láy gợi hình ảnh, cảm xúc “khúc khuỷu”, “ thăm thẳm”, “ Heo hút”
+ Hình ảnh vừa hiện thực vừa táo bạo, phi thường như dốc cao khiến súng chạm trời – “ súng ngửi trời”, dốc lên bao nhiêu thì xuống bấy nhiêu “ ngàn thước lên cao , ngàn thước xuống” .
+ Kết hợp hình ảnh với những âm thanh đặc sắc như “ thác gầm thét”, “ cọp trêu người”
+ Sử dụng nhiều thanh Trắc.
+ Đoạn thơ đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
Nét bút tài hoa của Quang Dũng đã vẽ lại con đường hành quân- chiến đấu của trung đoàn Tây Tiến trong những năm kháng chiến chống Pháp , con đường ấy thật gian khổ, hiểm nguy với đèo cao , dốc hiểm và thú rừng dữ tợn nhưng cũng thật lãng mạn, khó quên.
– Sau hàng loạt những câu thơ sử dụng thanh Trắc tác giả phóng bút một câu thơ toàn thanh Bằng khá độc đáo “ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Phải chăng sau những đoạn đường hành quân, chiến đấu vất vả thì chiến sĩ Tây Tiến được thưởng thức nét lãng mạn của cơn mưa rừng, được thưởng thức nét đẹp của nhà ai thấp thoáng trong màn mưa. Những giây phút lãng mạn , thơ mộng trên con đường hành quân là ngọn nguồn sức mạnh để các chiến sĩ vượt qua gian lao, thử thách.
Qua con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến ta cảm nhận được vẻ đẹp riêng của núi rừng Tây Bắc và trung đoàn Tây Tiến. Tây Bắc vừa hùng vĩ, tráng lệ vừa nên thơ, trữ tình. Chiến sĩ Tây Tiến kiên cường, bất khuất, sẵn sàng vượt gian lao thử thách để thực hiện nhiệm vụ trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh.
– Và trên con đường hành quân, chiến đấu , cũng có những chiến sĩ không còn đủ sức để tiếp tục nhiệm vụ, lí tưởng của mình:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Hai câu thơ gợi cái bi, sự mất mác , đau thương . Nhưng dẫu các anh “ không bước nữa”, “ bỏ quên đời “ thì vẫn trong tư thế cầm súng. Một số chiến sĩ Tây Tiến không tiếp tục sự nghiệp , lí tưởng bởi lẽ sức đã kiệt. Các anh sống và chiến đấu trong điều

kiện thiếu thốn thuốc men, lương thực, lại bị những cơn sốt rét rừng hoành hành nên không còn đủ sức để tiếp bước. Đây là hiện thực đau thương khó tránh khỏi trong những năm kháng chiến nên Quang Dũng cũng không ngần ngại khi nhắc đến. sự ra đi của đồng đội là mất mác không thể nào quên của đại đội trưởng Quang Dũng. Tác giả nhắc đến để tưởng nhớ, buồn thương , tự hào về đồng đội của mình và càng thôi thúc tinh thần chiến đấu để giành lấy sự bình yên, hạnh phúc, độc lập, tự do.
Đoạn mở đầu bài thơ “ Tây Tiến” da diết nỗi nhớ đồng đội , nhớ núi rừng Tây Bắc của tác giả Quang Dũng. Qua nỗi nhớ, con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến và bức tranh núi rừng Tây Bắc hiện về khá rõ nét.
Đó cũng chính là cái “Tình “ mà Quang Dũng dành cho Tây Tiến ,Tây Bắc : Yêu mến, gắn bó và tự hào.
( Chế Lan Viên : Khi ta ở , chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn )
* Đoạn 2: Những kỉ niệm đẹp của trung đoàn Tây Tiến trong những năm kháng chiến chống Pháp.
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa……….Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
* Kỷ niệm đẹp một thời trận mạc đã trở thành hành trang của người lính Tây Tiến. Đúng vậy, các chiến sĩ Tây Tiến cũng như chính tác giả cũng không thể nào quên những kỉ niệm trong những năm kháng chiến cùng đồng đội, quân dân. Kỉ niệm khó quên nhất có lẽ là những đêm liên hoan lửa trại:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa…….Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
+ Đêm “ hội đuốc hoa” là đêm liên hoan lửa trại giữa chiến sĩ Tây Tiến với đồng bào ( Tây Bắc, Lào) .
“ Doanh trại bừng lên “ – tác giả sử dụng từ “ bừng lên” thật hay, làm bừng sáng và tỏa hơi ấm cho không gian đêm hội. Đêm hội có ánh sáng, hơi ấm của “ đuốc hoa”, có tiếng khèn, điệu nhạc và có “em” trong trang phục xiêm áo đang yểu điệu , thướt tha , e ấp, dịu dàng. “ Em” ở đây là cô gái, có thể là các cô gái miền núi Tây Bắc nước ta, có thể là các cô gái Lào. Sự xuất hiện của các cô gái làm cho đêm hội thêm vui vẻ, ấm áp và quyến rũ, say lòng người.
+ Chiến sĩ Tây Tiến đa phần là những chàng trai Hà Nội hào hoa, lãng mạn và có chút đa tình nên khi các cô gái xuất hiện trong ánh lửa, tiếng khèn điệu nhạc khiến các anh ngạc nhiên , thích thú, say mê. Niềm vui, thái độ thích thú của các anh được tác giả diễn tả ở từ “ Kìa”. Phải chăng các anh ngạc nhiên vì nơi núi rừng ấy lại có những “ đóa hoa” say lòng người đến thế.
+ Say mê , thích thú trong đêm hội để về “ xây hồn thơ” các chiến sĩ xây mộng với các cô gái Các chiến sĩ thật là lãng mạn.
+ Tài hoa của Quang Dũng trong đoạn thơ là kết hợp hài hòa hình ảnh, âm thanh, ánh sáng,… Đoạn thơ là bức tranh đêm hội đuốc hoa thật vui vẻ ,ấm áp , lãng mạn . Và đó cũng chính là một trong những kỉ niệm không thể nào quên của trung đoàn Tây Tiến, minh chứng cho tình cảm đồng đội, tình quân dân nồng nàn, thắm thiết. Giây phút vui vẻ, hạnh phúc cùng đồng bào, tình cảm quân dân thắm thiết là hành trang của các chiến sĩ trên chiến trường ác liệt.
* Trung đoàn Tây Tiến qua nhiều vùng đất nơi Tây Bắc, mỗi vùng đất với nét đẹp riêng khó quên. Nếu Sài Khao có sương nhiều như che lấp cả đoàn quân Tây Tiến , Mường Hịch có tiếng cọp khiến con người ghê sợ , vùng Mai Châu có hương vị cơm nếp thật hấp dẫn ,…thì Châu Mộc cũng thật lãng mạn, trữ tình.
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy….Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Bốn câu thơ theo dòng hồi tưởng “trôi” về miền đất lạ, đó là Châu Mộc thuộc tỉnh Sơn La, nơi có những bãi cỏ bát ngát mênh mông, có dãy núi Pha Luông cao 1884 mét , nơi có bản Pha Luông sầm uất của người Thái. Quang Dũng đã khám phá ra bao vẻ kì thú của miền Châu Mộc. Năm tháng đã đi qua và miền đất ấy trở thành một mảnh trong tâm hồn của bao người.
“ Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn” ( Chế Lan Viên )
+ “Chiều sương ấy” là chiều thu năm 1947 , sương trắng phủ mờ núi rừng chiến khu làm cho cảnh, người càng thêm thơ mộng, trữ tình. Buổi chiều thu đầy sương ấy in đậm hồn người khiến cho hoài niệm thêm mênh mang. Chữ “ấy” bắt vần với chữ “ thấy” tạo nên một vần lưng giàu âm điệu, như một tiếng khẽ hỏi “có thấy” cất lên trong lòng.
+ “ Hồn lau” là hồn mùa thu, hoa lau nở trắng, lá lau xào xạc trong gió thu nơi bờ sông bờ suối“nẻo bến bờ”.
Với tâm hồn thi sĩ tài hoa, Quang Dũng đã cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Châu Mộc qua cảnh sắc “ chiều sương” và “ hồn lau nẻo bến bờ”.
+ Điệp ngữ “ có thấy”, “ có nhớ” làm cho hoài niệm về chiều sương Châu Mộc thêm phần man mác, bâng khuâng. Trong chia phôi còn có nhớ , nhớ cảnh rồi nhớ đến người. “ Có nhớ” con thuyền độc mộc và dáng người chèo thuyền độc mộc? “ Có nhớ” hình ảnh “hoa đong đưa” trên dòng nước lũ ? “ Hoa đong đưa” là hoa rừng đong đưa làm duyên trên dòng nước hay là hình ảnh ẩn dụ gợi tả các cô gái miền Tây Bắc xinh đẹp lái thuyền duyên dáng, uyển chuyển như những bông hoa rừng đang đong đưa
trên dòng suối? Và nếu là hình ảnh gợi tả các cô gái Tây Bắc thì các cô gái ấy phải có “tay lái ra hoa” mới có thể “ đong đưa” được như vậy. Quang Dũng thật tài tình và con người Tây Bắc thật tài hoa!
Bốn câu thơ là những dòng hồi tưởng về cảnh sắc và con người nơi Tây Bắc, nơi cao nguyên Châu Mộc.Với bút pháp tài hoa và tâm hồn lãng mạn , Quang Dũng vẽ lại bức tranh tuyệt đẹp về thiên nhiên và con người Tây Bắc.
+ Thuở ấy, núi rừng Tây Bắc thật hoang vu, là chốn rừng thiêng nước độc nhưng tác giả đã khám phá ra được nét đẹp thật thơ mộng, lãng mạn của cảnh và người .Nhà thơ gắn bó với cảnh vật, với con người Tây Bắc, vào sinh ra tử với đồng đội mới có những kỉ niệm đẹp và sâu sắc như vậy, mới có thể viết nên những vần thơ sáng giá đến như thế.
Bức tranh chiều sương Châu Mộc và đêm hội đuốc hoa như một bức tranh sơn mài của một danh họa mang vẻ đẹp màu sắc cổ điển và lãng mạn, kết hợp hài hòa tính thời đại và hiện đại trong máu lửa chiến tranh.

Bức tranh chiều sương Châu Mộc và đêm hội đuốc hoa là tài năng , tâm hồn và sự gắn bó sâu nặng của Quang Dũng với trung đoàn Tây Tiến, với núi rừng Tây Bắc và với quê hương đất nước trong những năm kháng chiến chống Pháp.
* Đoạn 3 : chân dung chiến sĩ Tây Tiến với khí phách anh hùng, tâm hồn lãng mạn trong máu lửa chiến tranh.
TâyTiến đoàn binh không mọc tóc………Sông Mã gầm lên khúc độc hành
* Trên những nẻo đường hành quân , chiến đấu , vượt qua bao đèo cao dốc hiểm , đoàn quân Tây Tiến hiện ra giữa núi rừng trùng trùng điệp điệp vừa kiêu hùng vừa cảm động. Người chiến binh với quân trang màu xanh của lá rừng, với nước da phong sương vì sốt rét rừng, thiếu thuốc men, lương thực,…
TâyTiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
– Hai câu thơ trần trụi như hiên thực chiến tranh những năm tháng kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh đoàn quân “ không mọc tóc” vừa gợi nét bi hài vừa phản ánh cái khốc liệt của chiến tranh.
Cái hình hài không lấy gì làm đẹp “không mọc tóc”, “ xanh màu lá” tương phản với nét“ dữ oai hùm”. Với bút pháp tài hoa, Quang Dũng làm bật chí khí hiên ngang , tinh thần quả cảm xung trận của các chiến binh Tây Tiến từng làm quân giặc khiếp sợ.
– “ Dữ oai hùm” là hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí của người lính Tây Tiến , tuy các chiến sĩ có gầy, xanh nhưng không hề yếu, chí khí của người lính vẫn như con hổ nơi rừng xanh. Cái tài của Quang Dũng là khắc họa chân dung bên ngoài của chiến sĩ Tây Tiến tuy gầy , xanh nhưng vẫn toát lên được cái oai phong, khí phách của người lính cụ Hồ.
* Các chiến sĩ Tây Tiến tuy hành quân, chiến đấu trong muôn vàn gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật,…nhưng vẫn có những giấc mơ, giấc mộng rất đẹp:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới…….Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Các chiến sĩ Tây Tiến mộng và mơ gửi về hai phía chân trời : biên giới và Hà Nội, biên giới là nơi còn đầy bóng giặc, Hà Nội là nơi còn đó những kỉ niệm, những người thân thương,…
– Mắt trừng – hình ảnh gợi tả nét dữ dội, oai phong lẫm liệt, tinh thần cảnh giác, tỉnh táo của người lính trong khói lửa ác liệt , “gửi mộng qua biên giới” là mộng tiêu diệt kẻ thù,bảo vệ biên cương , lập nên chiến công nêu cao truyền thống anh hùng của đoàn quân Tây Tiến, của chiến sĩ cụ Hồ.
– Các chiến sĩ Tây Tiến lại có những giấc mộng đẹp về Hà Nội ,về “ dáng kiều thơm”. Chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên Hà Nội “ Xếp bút nghiên theo việc đao, cung”, họ là những chàng thanh niên trẻ hào hoa, lãng mạn và có chút đa tình. Khi xa Hà Nội, tiến về Tây Bắc để thực hiện nhiệm vụ thì các chiến sĩ luôn “Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Sống giữa chiến trường ác liệt nhưng tâm hồn các anh luôn hướng về Hà Nội , mơ về Hà Nội. Đúng vậy, làm sao các anh có thể quên được hàng me, hàng sấu, phố cổ trường xưa? ,… Làm sao các anh quên được những tà áo trắng, những cô gái thân thương,… những “dáng kiều thơm” đã từng hò hẹn,…? Hình ảnh “ dáng kiều thơm” của Quang Dũng đem đến cho người đọc nhiều điều thú vị , ngôn từ vốn có trong thơ lãng mạn thời “tiền chiến” nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng nó trở nên có hồn, đặc tả được chất lính trẻ trung, hào hoa, lãng mạn của binh đoàn Tây Tiến trong trận mạc.
Viết về “mộng” và “ mơ “ của trung đoàn Tây Tiến , Quang Dũng đã ca ngợi tinh thần lạc quan, yêu đời của đồng đội. Đó cũng chính là nét khám phá của nhà thơ khi vẽ chân dung người lính cụ Hồ xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản trong những năm kháng chiến chống Pháp.
* Bốn câu thơ tiếp theo tô đậm chân dung chiến sĩ Tây Tiến:
– Trong gian khổ chiến trận , bao đồng đội đã ngã xuống trên mảnh đất miền Tây, họ nằm lại nơi chân đèo góc núi :
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ……..Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Câu thơ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”để lại trong lòng ta nhiều thương cảm , biết ơn, tự hào,…. Câu thơ gợi cái bi, nếu đứng một mình thì nó gợi một bức tranh xám lạnh, ảm đạm, hiu hắt ,…và đem đến cho người đọc nhiều xót thương. Nhưng cái tài của Quang Dũng là đã tạo cho nó một văn cảnh, tiếp theo sau là “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Khi nằm trong văn cảnh ấy thì câu thơ càng thể hiện chí khí, tinh thần của người lính Tây Tiến. “Đời xanh” là đời trai trẻ, tuổi xuân. “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” là họ sẵn sàng ra trận vì lí tưởng cao đẹp: bảo vệ biên cương, tiêu diệt kẻ thù, giành độc lập tự do,… Họ là những thanh niên Hà Nội, họ tiến về miền Tây của Tố quốc vì nghĩa lớn của chí khí làm trai. Dẫu thấy cái chết trước mắt họ vẫn không sợ, họ coi cái chết nhẹ như lông hồng. Họ sẵn sàng “ quyết tử cho Tố quốc quyết sinh”.
Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề thiêng liêng, cao cả. Các anh quyết đem xương máu bảo vệ Tổ quốc , bảo vệ độc lập tự do cho dân tộc. Tinh thần của người lính Tây Tiến cũng như quyết tâm sắt đá của dân tộc ta trong những năm kháng chiến chống Pháp:” chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
– Cảnh trường bi tráng giữa chiến trường miền Tây thuở ấy được tác giả ghi lại ở hai câu cuối của đoạn thơ:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Các chiến sĩ ngày xưa giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh. Các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ , với tấm áo bào bình dị ấy “về với đất”. Một sự ra đi thật nhẹ nhàng, thanh thản ! Anh giết giặc vì quê hương, anh ngã xuống là “ về đất” , nằm trong lòng Mẹ tổ quốc thân thương. Nhà thơ không dùng từ “ chết”, “ hi sinh” mà dùng từ “ về đất” để ca ngợi sự hi sinh cao cả mà bình dị, thầm lặng mà thanh thản của người lính Tây Tiến. Chiến sĩ Tây Tiến đã sống và chiến đấu
cho quê hương,đã hi sinh cho quê hương, “anh về đất” bằng tất cả tấm lòng thủy chung son sắt với Tố quốc. Vì thế mà “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Đây là câu thơ hay, gợi tả không khí thiêng liêng, trang trọng đồng thời tạo âm điệu trầm hùng, thương tiếc. “Sông mã gầm lên “ hay hồn thiêng sông núi đang tấu lên khúc nhạc tiễn đưa linh hồn các anh về nơi an nghỉ cùng đất Mẹ.
* Đoạn thơ viết về chân dung chiến sĩ Tây Tiến là đoạn thơ độc đáo nhất trong bài . Đoạn thơ đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn , kết hợp vận dụng sáng tạo trong miêu tả và biểu lộ cảm xúc tạo nên những câu thơ có hồn và khắc họa được vẻ đẹp bi tráng của chiến sĩ Tây Tiến. Các chiến sĩ Tây Tiến đã sống anh hùng và chết vẻ vang. Chính vì thế mà hình ảnh người lính Tây Tiến, người lính cụ Hồ mãi mãi là một tượng đài nghệ thuật bi tráng in sâu vào tâm hồn dân tộc:
“ Anh vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế !” ( Tố Hữu )
* Khắc họa chân dung chiến sĩ Tây Tiến đậm chất bi tráng -> Quang Dũng khẳng định , ngợi ca tinh thần yêu nước , chủ nghĩa anh hùng của chiến sĩ Tây Tiến, chiến sĩ Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Đồng thời qua đó thể hiện nét bút tài năng và tình cảm yêu mến, gắn bó, tự hào về trung đoàn Tây Tiến của Quang Dũng.
b. Nghệ thuật:
– Ngôn từ giàu hình ảnh, cảm xúc; nhiều từ ngữ Hán Việt ; từ ngữ chỉ địa danh.
– Sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật đặc sắc như nhân hóa, đối lập, điệp,..
– Hình ảnh đặc sắc, đậm chất thơ chất nhạc.
– Kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và bút pháp bi tráng.
-> Nét bút tài hoa của Quang Dũng.

Đề thi thử đại học bài : SÓNG ( Xuân Quỳnh )

Đề thi thử đại học môn văn 2016 khối D 6
1.Tác giả :
– Cuộc đời bất hạnh ; luôn khát khao tình yêu , mái ấm gia đình và tình mẫu tử.
– Đặc điểm hồn thơ : tiếng nói của người phụ nữ giàu lòng yêu thương; khao khát hạnh phúc đời thường, bình dị; nhiều âu lo,day dứt, trăn trở trong tình yêu.
2.Tác phẩm :
a.Hoàn cảnh sáng tác: 1967 – tại biển Diêm Điền , Thái Bình.
b.Đề tài : tình yêu – tình cảm muôn đời của con người.
c.Nội dung : Mượn hình tượng sóng để diễn tả tình yêu của người phụ nữ . Sóng là hình ảnh ẩn dụ cho tâm hồn người phụ nữ đang yêu. Bài thơ thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu: tình yêu tha thiết, nồng nàn, đầy khát vọng và sắt son, chung thủy, vượt lên mọi giới hạn của đời người.
– Sóng là một hình tượng đẹp của thiên nhiên , các thi nhân thường mựợn sóng để biểu đạt những sắc thái tình cảm của mình.
– Sóng trong thơ XQ là hình tượng biểu hiện cho một tình yêu nồng ấm, dạt dào, tha thiết,…và vĩnh hằng. Sóng và em trong bài thơ có mối quan hệ mật thiết với nhau . Sóng chính là biểu hiện tình yêu của em , của người con gái đang yêu nồng nàn, tha thiết.
– Trong bài thơ “ Sóng” của XQ, sóng là một hình tượng ẩn dụ . XQ đã mượn hình tượng sóng để nói lên tính chất của tình yêu .
+ Mở đầu bài thơ, XQ đã đưa ra hai tính chất đối lập của sóng:
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Quả đúng như vậy, những khi bão tố, biển động thì sóng trào lên một cách dữ dội, ồn ào như giận dữ muốn nghiền nát cả bờ. Nhưng những lúc trời êm biển lặng thì sóng chỉ rì rào, dịu êm và lặng lẽ . Hai tính chất đối lập này của sóng cũng chính là hai tính chất đối lập trong tình yêu . Tình yêu cũng như sóng, có lúc khát khao cháy bỏng, mãnh liệt , ào ạt nhưng có lúc dịu êm, lặng lẽ , mơ màng đi vào chiều sâu của sự nhớ nhung, chờ đợi.
+ Sông không hiểu chính mình
Sóng tìm ra tận bể
Những con sóng cũng thật mạnh mẽ, bản lĩnh : ở phạm vi chật hẹp không hiểu mình thì con sóng tìm ra phạm vi rộng lớn hơn. Mượn nét tính cách , khát khao này của con sóng để thể hiện khát vọng vươn tới miền bao la, vô tận tìm đến tình yêu đích thực của người con gái, người phụ nữ Đây cũng chính là bản lĩnh mạnh mẽ, táo bạo của người phụ nữ trong tình yêu.
+ Con sóng ngày xưa, ngày nay vẫn cứ “Dữ dội và dịu êm, Ồn ào và lặng lẽ” muôn đời sóng vẫn vỗ và muôn đời tình yêu là tình cảm mà con người khát khao:
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày nay vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
Nhà thơ đã yêu, đang yêu và chiêm nghiệm từ tình yêu của chính mình để khẳng định : Tình yêu là khát vọng muôn đời của con người và nhất là tuổi trẻ . Có lẽ vì thế mà con người chúng ta thường quan niệm tuổi trẻ là tuổi của tình yêu, tuổi của khát khao hạnh phúc.
+ Nhà thơ đã yêu, đang yêu và muốn đi tìm căn nguyên của tình yêu, điểm khởi nguồn của sóng.
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Khởi nguồn của sóng thì có thể tìm hiểu được , điểm khởi đầu của tình yêu thì “Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau” . Thật khó khăn để lí giải Ta yêu nhau khi nào?, Vì sao ta yêu nhau?,…bởi tình yêu thuộc phạm trù tình cảm , những tình cảm được rung lên từ lòng người và hơi thở của trái tim mà chiều sâu lòng người, hơi thở trái tim làm sao hiểu hết được.Vì thế, trong tình yêu thì muôn đời có những câu hỏi không trả lời được.
XQ đã yêu, đang yêu da diết, mãnh liệt nhưng cũng chỉ biết lắc đầu rất phụ nữ “ em cũng không biết nữa” . Câu thơ vừa chứa đựng một sự ngây thơ, bối rối vừa chứa đựng chút bất lực của nhà thơ trước câu hỏi “ Khi nào ta yêu nhau”.Câu hỏi mà các thế hệ thi nhân vẫn chưa trả lời được. Ngay cả ông hoàng tình yêu – Xuân Diệu cũng bối rối “ Làm sao cắt nghĩa được tình yêu ..
+ Không cắt nghĩa được tình yêu, không lí giải được “ Khi nào ta yêu nhau” nhưng nhà thơ thành thật thổ lộ yêu là nhớ nhung da diết, mãnh liệt:
Con sóng dưới lòng sâu…..
Cả trong mơ còn thức
Tình yêu cũng như con sóng , có khi biểu hiện cụ thể trên bề mặt rất dễ nhận biết nhưng có khi lại lắng sâu vào tận đáy tâm hồn và chỉ có những người nhạy cảm, có chiều sâu tâm tưởng mới nhận ra được. XQ đã khéo léo dùng phép nhân hóa để khẳng định rằng dù là con sóng chìm hay sóng nổi thì con nào cũng nhớ bờ thao thức, ngày đêm không ngủ được.
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Con sóng nhớ bờ ngày đêm không ngủ được hay chính là nỗi nhớ da diết, rạo rực trong tình yêu của XQ. Nỗi nhớ trong tình yêu chiếm lĩnh cả thời gian , không gian, cả lúc thức lẫn lúc ngủ.
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Cách diễn đạt nỗi nhớ của XQ thật là độc đáo , nhà thơ bộc lộ thẳng thắn nỗi nhớ của mình trong tình yêu. Nỗi nhớ cứ tồn tại , cứ hiện diện trong tâm hồn , nó không hề lắng xuống mà trào dâng mãnh liệt , quay quắt không nguôi.
+ Từ nỗi nhớ tha thiết trong tình yêu , nhà thơ khẳng định tấm lòng sắt son chung thủy của mình đối với người yêu :
Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh- một phương
Dẫu có xa cách thời gian , không gian thì trái tim em , ánh mắt em vẫn luôn dành cho anh. Thật là một trái tim yêu thủy chung , son sắt đáng trân trọng biết bao. Đoạn thơ 4 câu như một lời thề, một lời tự đính ước với người mình yêu. Tình yêu chân thành, tha thiết ; mãnh liệt , thủy chung.
+ Yêu chân thành, mãnh liệt nên nhà thơ tin tưởng ở tình yêu của chính mình:
Ở ngoài kia đại dương
Tăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Người phụ nữ đang yêu và tin rằng tình yêu ấy sẽ đến bến bờ hạnh phúc dù phải trải qua những khó khăn, thử thách. Đúng vậy, một tình yêu chân chính, đích thực sẽ giúp con người vượt qua bao sóng gió cuộc đời để đưa tình yêu cập bến bờ hạnh phúc, yêu thương.
+ Yêu tha thiết nên nhà thơ khao khát bất tử hóa tình yêu:
Cuộc đời tuy dài thế…….
Để ngàn năm còn vỗ.
Vũ trụ vĩnh hằng , cuộc đời con người hữu hạn . Làm sao để được yêu như trái tim mình khao khát ? Khao khát bất tử hóa tình yêu nhưng trái tim của nhà thơ không vị kỉ , tầm thường , nhỏ hẹp mà thật lớn lao, cao thượng. Nhà thơ đã hòa niềm hạnh phúc
riêng của mình vào niềm hạnh phúc của cuộc đời rộng lớn, cái riêng tồn tại trong cái chung bao la , rộng lớn ấy nên trở thành vỉnh cửu.
– Nghệ thuật :
+ Thể thơ tự do – 5 chữ.
+ Cách ngắt nhịp, gieo vần độc đáo; giàu sức liên tưởng.
+ Xây dựng hình tượng ẩn dụ – sóng.
+ Giọng thơ tha thiết.
Mượn hình tượng sóng để diễn tả tình yêu của người phụ nữ . Sóng là hình ảnh ẩn dụ cho tâm hồn người phụ nữ đang yêu Bài thơ thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu: tình yêu tha thiết, nồng nàn, đầy khát vọng và sắt son, chung thủy, vượt lên mọi giới hạn của đời người Trái tim yêu của Xuân Quỳnh:
“ Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai cũng có
Vẫn ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”
d.Nghệ thuật :
+ Thể thơ tự do – 5 chữ.
+ Cách ngắt nhịp, gieo vần độc đáo; giàu sức liên tưởng.
+ Xây dựng hình tượng ẩn dụ – sóng.
+ Giọng thơ tha thiết

Đề thi thử đại học bài : ĐÀN GHITA CỦA LORCA ( Thanh Thảo ) “ khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”- Lorca

Đề thi thử đại học môn văn 2016 khối D 7

1. Tác giả :
– Tên thật : Hồ Thành Công, 1946, Quảng Ngãi.
– Tốt nghiệp khoa Văn, ĐHTH Hà Nội rồi tham gia kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam.
– Làm thơ, viết báo, viết tiểu luận phê bình…
– Là một trong những gương mặt tiêu biểu cho thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
– Đặc điểm thơ:
+ Là sự lên tiếng của người trí thức nhiều suy tư, trăn trở về các vấn đề xã hội và thời đại
+ Thể hiện sự cách tân thơ Việt : đào sâu cái tôi nội cảm; cách biểu đạt mới với câu thơ tự do, xóa bỏ ràng buộc khuôn sáo bằng nhịp điệu, cách gieo vần….
– Tác phẩm chính: Những người đi tới biển, Dấu chân qua trảng cỏ, Khối vuông ru-bích…
– 2001: được giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.
2. Tác phẩm :
a. Xuất xứ : Rút trong tập “Khối Ru-bích”
– Thể hiện tư duy thơ Thanh Thảo: giàu suy tư, nhuốm màu sắc tượng trưng, siêu thực.
* Lorca (1898-1936): Nhà thơ thiên tài của Tây Ban Nha, người có khát vọng tự do và khát vọng cách tân nghệ thuật mãnh liệt, đã bị chính quyền phản động thân phát xít bắt giam và giết hại.
b. Bố cục : bài thơ chia làm 4 đoạn:
+ Đoạn 1(6 dòng đầu) : Hình ảnh Lor-ca, con người tự do, nghệ sĩ cách tân trong khung cảnh chính trị và nghệ thuật Tây Ban Nha
+ Đoạn 2 (12 dòng tiếp): Ga-xi-a Lor-ca bị hạ sát và nỗi xót xa về sự dang dở của khát vọng cách tân
+ Đoạn 3 (4 dòng tiếp): niềm xót thương Ga-xi-a Lor-ca và nỗi xót tiếc những cách tân nghệ thuật của Lor-ca không ai tiếp tục.
+ Đoạn 4 (9 dòng cuối): Suy tư về cuộc giải thoát và cách giã từ của Ga-xi-a Lor-ca.
c. Chủ đề : Qua hình tượng Lorca và tiếng đàn ghita, tác giả diễn tả cái chết bi tráng, đột ngột của người nghệ sĩ đấu tranh cho tự do và cách tân nghệ thuật, đồng thời bày tỏ nổi đau xót sâu sắc và niềm tin mãnh liệt vào sự bất tử của tên tuổi và sự nghiệp Lorca.
3. Phân tích:
3.1. Ý nghĩa tựa đề và lời đề từ :
a. Tựa đề “Đàn ghi ta của Lorca”
– Đàn ghi ta là niềm tự hào, là hồn của đất nước Tây Ban Nha (nên còn được gọi là Tây Ban cầm).
– Đàn ghi ta gắn bó thân thiết với Lor-ca trên những nẻo đường ca hát và sáng tạo.
Đàn ghi ta là biểu tượng cho tình yêu của Lor-ca đối với đất nước Tây Ban Nha, cho con đường nghệ thuật của tác giả, cho khát vọng cao cả mà Lor-ca nguyện phấn đấu suốt đời.
b. Lời đề từ : Đây là di chúc của nhà thơ, khi tiên cảm về cái chết.
– Hãy chôn tôi với cây đàn – phần hồn của đất nước Tây Ban Nha tình yêu Tổ quốc nồng nàn.
– Hãy chôn tôi với cây đàn – biểu trưng cho sự nghiệp của Lor-ca ước nguyện suốt đời theo đuổi sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật, mong muốn xóa bỏ ảnh hưởng của bản thân để dọn đường cho thế hệ sau vươn tới.
3.2. Ý nghĩa tượng trưng qua hệ thống hình ảnh
– Đoạn 1 :
+ Hình ảnh Lor-ca được giới thiệu bằng những nét chấm phá, phần nào chịu ảnh hưởng của trường phái ấn tượng: những tiếng đàn bọt nước – Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt – li-la-li-la-li-la – đi lang thang về ven biển đơn độc – với vầng trăng chếnh choáng – trên yên ngựa mỏi mòn.
+ Những hình ảnh tương phản vừa giúp ta hình dung về Lor-ca, vừa gợi ta liên tưởng tới khung cảnh của một đấu trường. Nhưng ở đấy không phải đấu trường với cuộc đấu giữa võ sĩ với bò tót mà là một đấu trường đặc biệt với cuộc đấu giữa khát vọng dân chủ của công dân Lor-ca với nền nghệ thuật già nua. Ở đó, nhìn theo góc độ nào cũng vẫn chỉ thấy con người tự do và nhà cách tân nghệ thuật thật mong manh và đơn độc.
– Đoạn 2:
+ Cái chết bất ngờ đến với Lor-ca. Con người trong sạch và vô tội ấy dù luôn bị ám ảnh bởi cái chết của chính mình, vẫn không thể nghĩ nó lại đến sớm thế và đến vào lúc chàng không ngờ nhất.
+ Cảnh Lor-ca bị hành hình với những diễn biến phũ phàng lúc đầu được diễn tả bằng hình ảnh thực: “áo choàng bê bết đỏ”, sau đó, sự kiện thảm khóc ấy tạo những cú xốc dây chuyền được diễn tả theo lối tượng trưng, liên tục chuyển đổi cảm giác, qua hệ thống âm thanh vỡ ra thành màu sắc, thành hình khối, thành dòng máu chảy: “tiếng ghi ta nâu”, “tiếng ghi ta lá xanh biết mấy”, “tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan”, “tiếng ghi ta ròng ròng-máu chảy”.
Đoạn 3:
+ Niềm xót thương của Ga-xi-a Lor-ca và nỗi xót tiếc những cách tân nghệ thuật của Lor-ca không ai tiếp tục:
không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
Di chúc “khi tôi chết, hãy chôn tôi với cây đàn” của Lor-ca được lấy làm đề từ của bài thơ như một thứ chìa khóa ngầm hướng người đọc hiểu thông điệp thực sự của bài thơ. Di chúc này, trong nhận thức của một người đọc bình thường, hiển nhiên bộc lộ tình yêu say đắm của Lor-ca với nghệ thuật? Không chỉ có vậy, nó còn là tình yêu với xứ sở Tây-Ban-cầm? Nhưng Lor-ca không phải là một nghệ sĩ sinh ra để nói những điều đơn giản. Do đó, di chúc của Lor-ca còn những ý nghĩa sâu xa khác. Nhà thơ cách tân là Lor-ca biết thi ca mình một ngày nào đó sẽ ngăn cản những người đến sau trong sáng tạo nghệ thuật nên đã dặn lại cần phải biết chôn nghệ thuật của ông để đi tới.
+ Chẳng phải do ngẫu hứng khi Thanh Thảo viết “không ai chôn tiếng đàn – tiếng đàn như cỏ mọc hoang…”. Câu thơ mở ra nhiều hướng suy nghĩ: là nỗi xót thương cái chết của một thiên tài; là nỗi xót tiếc hành trình cách tân dang dở không chỉ với bản thân Lor-ca mà còn với nền văn chương Tây Ban Nha. Bởi lẽ, nhà cách tân Lor-ca đã chết, nghệ thuật vắng thiếu kẻ dẫn đường. Nghệ thuật thành thứ cỏ mọc hoang? Nhưng ý thơ đâu chỉ dừng lại ở đó. Dường như còn có cả nỗi buồn của người nghệ sĩ ham tìm tòi cách tân, rốt cuộc không ai thực sự hiểu di chúc của Lor-ca. .Nỗi đau xót trước cái chết của Lor-ca và trước sự dang dở của một khát vọng cách tân đọng lại thành những hình ảnh đẹp và buồn được viết theo lối sắp đặt, dựa trên nguyên lí cốt lõi của cấu trúc gián đoạn: giọt nước mắt vầng trăng – long lanh trong đáy giếng,… do đó, tạo lập một hệ thống hình ảnh trùng phức giao thoa, ánh xạ vào nhau, gợi những suy tư đa chiều…
– Đoạn 4:
+ Cái chết thực sự của một nhà cách tân là khi những khát vọng của anh ta không có ai tiếp tục. Nhưng cái chết đau đớn hơn của một nhà cách tân còn là khi tên tuổi và sáng tạo của anh ta được đem lên bệ thờ và trở thành một bức tường kiên cố cản trở sự cách tân văn chương của những người đến sau.
+ Vậy, nhân danh lòng kính trọng Lor-ca, hãy để cho Lor-ca có được một sự giải thoát thực sự. Đường chỉ tay bé nhỏ, dòng sông rộng mênh mang, hay là phận người thì ngắn ngủi mà thế giới thì vô cùng. Lor-ca đi vào cõi khác với hình ảnh: “Lor-ca bơi sang ngang-trên chiếc ghi ta màu bạc”.
+ Các hành động : “ném lá bùa”, “ném trái tim vào xoáy nước”, vào cõi “lặng yên” đều mang nghĩa tượng trưng cho sự giã từ và giải thoát, chia tay thực sự với những ràng buộc và hệ lụy trần gian…
3.3. Yếu tố âm nhạc trong bài thơ :
Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca ngoài cấu trúc tự sự còn được chồng thêm một cấu trúc khác: cấu trúc nhạc giao hưởng, gợi liên tưởng một bè trầm, có phần nhạc đệm của ghi ta. Các chuỗi âm li-la-li-la-li-la luyến láy sau hai câu thơ đầu, gợi liên tưởng tiếng vang của chùm hợp âm sau tấu khúc hoặc ca khúc mở đầu. Chuỗi âm “li-la li-la li-la” kết thúc bài thơ gợi lên tiếng vang của chùm hợp âm vĩ thanh, sau khi phần chính của bản nhạc đã được diễn tấu xong, hoặc khi ca khúc đã dừng lời.
3.4. Nghệ thuật : Sử dụng thành công thủ pháp thơ siêu thực: không có dấu câu, hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng, bài thơ như một bản nhạc giao hưởng, ngôn ngữ hàm súc giàu sức gợi cảm.
3.5. Ý nghĩa văn bản : ngợi ca vẻ đẹp nhân cách, tâm hồn và tài năng Lor-ca- nhà thơ, nhà cách tân vĩ đại của văn học Tây Ban Nha và thế giới thế kỉ XX.

Bài thi thử đại học bài : Chiếc thuyền ngoài xa

Đề thi thử đại học môn văn 2016 khối D 8

1. Xuất xứ
Chiếc thuyền ngoài xa được viết năm 1983 – khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã đi qua được 6 năm, đất nước trở lại với cuộc sống đời thường. Nhiều vấn đề của đời sống văn hóa nhân sinh mà trước đây do hoàn cảnh chiến tranh chưa được chú ý, nay được đặt ra.
Tác phẩm nằm trong xu hướng nghệ thuật chung của văn học thời kỳ đổi mới: hướng nội, khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người đời thường.
2.Tóm tắt
Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đến một vùng ven biển miền Trung (cũng là nơi anh đã từng chiến đấu) để chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch năm sau. Sau nhiều ngày “phục kích”, người nghệ sĩ đã phát hiện và chụp được “một cảnh đắt trời cho” – đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh đã kinh ngạc hết mức khi chứng kiến từ chính chiếc thuyền đó cảnh một gã chồng vũ phu đánh đập người vợ hết sức dã man, đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh trả lại cha mình. Những ngày sau, cảnh tượng đó lại tiếp diễn và lần này người nghệ sĩ đã ra tay can thiệp… Theo lời mời của chánh án Đẩu (một người đồng đội cũ của Phùng), người đàn bà hàng chài đã đến toà án huyện. Tại đây, người phụ nữ ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và Phùng, nhất quyết không bỏ lão chồng vũ phu. Chị đã kể câu chuyện về cuộc đời mình và đó cũng là lí do giải thích cho sự từ chối trên. Rời vùng biển với khá nhiều ảnh, người nghệ sĩ đã có một tấm được chọn vào bộ lịch “tĩnh vật hoàn toàn” về “thuyền và biển” năm ấy. Tuy nhiên, mỗi lần đứng trước tấm ảnh, người nghệ sĩ đều thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy hình ảnh người đàn bà nghèo khổ, lam lũ ấy bước ra từ bức tranh.
3. Nhan đề
– Chiếc thuyền ngoài xa trước hết là biểu tượng của nghệ thụât, đó là thứ nghệ thụât đạt tới sự toàn mĩ và thánh thiện đến mức mà chiêm ngưỡng nó, người nghệ sĩ thấy tâm hồn mình được thanh lọc.
– Chiếc thuyền khi về gần đó lại là hiện thân của cuộc đời lam lũ, khó nhọc, thậm chí của những éo le, trái ngang và nghịch lí trong cuộc sống.
– Như vậy, chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa nhưng cuộc đời thì lại rất gần. Người nghệ sĩ cần có một khoảng cách nhất định để khám phá và thưởng thức vẻ đẹp đích thực của nghệ thụât nhưng lại cũng cần bám sát cuộc đời để phát hiện ra những sự thật của cuộc sống.
– Nhan đề là một ẩn dụ về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật !
4. Tình huống truyện
– Tình huống: một nghệ sĩ nhiếp ảnh đến một vùng ven biển miền Trung để chụp một tấm ảnh về cảnh biển buổi sớm có sương. Tại đây, anh đã phát hiện và chụp được một cảnh tượng “trời cho” – đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, người nghệ sĩ đã chứng kiến cảnh một gã chồng vũ phu đánh đập người vợ hết sức dã man. Ba hôm sau, cảnh tượng ấy lại diễn ra, người đàn bà được mời đến tòa án huyện, tại đây, người nghệ sĩ lắng nghe câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà hàng chài kể lại và đó như một lời giải thích vì sao chị ta không bỏ chồng dù người chồng tàn bạo.
– Đây là một “tình huống nhận thức”, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về chân lí đời sống, chân lí nghệ thuật. Phùng đã phát hiện sau cảnh đẹp như mơ kia là những ngang trái, nghịch lí của đời thường.
– Tình huống truyện, thể hiện cái nhìn đa chiều về cuộc sống. Chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng đã hiểu ra nhiều điều về con người, cuộc sống khi chứng kiến câu chuyện và tiếp xúc với người đàn bà hàng chài.Từ tình huống truyện, tác giả đã đặt ra vấn đề “đôi mắt”, cách nhìn đời, nhìn người trong cuộc sống.
5. Nội dung
5.1.Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng
* Một người nghệ sĩ đích thực, người đã phát hiện, cảm nhận được vẻ đẹp và giá trị của một “cảnh đắt trời cho”- một cảnh tượng tuyệt đẹp
– Đó một “bức hoạ” diệu kì mà thiên nhiên, cuộc sống đã ban tặng cho con người.
– Mặt khác, như chính cảm nhận của nghệ sĩ Phùng, trong sự cảm nhận ban đầu cái cảnh tượng ấy giống như “một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ”. Toàn bộ khung cảnh “từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”.
– Đứng trước một sản phẩm nghệ thuật tuyệt tác của hoá công, người nghệ sĩ trở nên “bối rối” và “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Tức là bức ảnh đã khiến cho tâm hồn người nghệ sĩ rung động thật sự và một cảm xúc thẩm mĩ đang dấy lên trong lòng anh.
– Chưa hết, trong giây lát, người nghệ sĩ còn “khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Nói cách khác, trong một khoảnh khắc của cuộc sống, nghệ sĩ Phùng đã cảm nhận được cái Chân, cái Thiện của cuộc đời, anh cảm thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi
– Tuy nhiên, ngay khi tâm hồn đang bay bổng trong những xúc cảm thẩm mĩ, đang tận hưởng cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn thì người nghệ sĩ nhiếp ảnh đã kinh ngạc phát hiện ra:
+ Bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ là một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi ; một gã đàn ông to lớn, dữ dằn ; một cảnh tượng tàn nhẫn : gã chồng đánh đập người vợ một cách thô bạo ;… Đứa con vì thương mẹ đã đánh lại cha để rồi nhận lấy hai cái bạt tai của bố ngã dúi xuống cát… Chứng kiến những cảnh tượng đó, nghệ sĩ Phùng kinh ngạc đến thẫn thờ : “Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn”. Người nghệ sĩ như “chết lặng”, không tin vào những gì đang diễn ra trước mắt.
+ Sở dĩ nghệ sĩ Phùng trở nên như vậy là vì anh không thể ngờ rằng đằng sau cái vẻ đẹp diệu kì của tạo hoá kia lại có cái ác, cái xấu đến không thể tin được. Vừa mới lúc trước, anh còn cảm thấy “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”, thấy “chân lí của sự toàn thiện” thế mà chỉ ngay sau đó chẳng còn cái gì là “đạo đức”, là cái “toàn thiện” của cuộc đời. Phùng xót xa cay đắng nhận thấy cái xấu xa, ngang trái, bi kịch trong gia đình người dân chài đã làm cho tấm ảnh của anh chụp được kia như nhuốm màu đau thương ghê sợ. Chao ôi! Nghệ thuật không thể là màn sương mờ ảo màu sữa pha ánh hồng ban mai che lấp đi nỗi đau thương của kiếp người.
– Qua hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng, Nguyễn Minh Châu muốn người đọc nhận thức về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống. Nghệ thuật không thể chỉ dừng lại ở vẻ đẹp bề ngoài nhất là cái vẻ đẹp tuyệt vời thơ mộng, mà còn phải thấu nhị tới bề sâu, bề sâu của cuộc đời không hề đơn giản, mà tâm điểm chính là con người với số phận đa đoan, với mọi nhọc nhằn và cả khổ đau, không hiếm những ngang trái bi kịch. Cuộc đời đâu phải chỉ toàn màu hồng, cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lí. Cuộc sống luôn tồn tại những mặt đối lập, những mâu thuẫn : đẹp – xấu, thiện – ác,… Vì thế mà nhà văn đã có dụng ý khi để cảnh tượng “trời cho” hiện ra trước như là vỏ bọc bên ngoài hòng che giấu cái bản chất thực của đời sống ở bên trong. Nhà văn khẳng định : Đừng nhầm lẫn hiện tượng với bản chất, giữa hình thức bên ngoài với nội dung bên trong không phải bao giờ cũng thống nhất ; đừng vội đánh giá con người, sự vật ở dáng vẻ bên ngoài, phải phát hiện ra bản chất thực sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng.
*Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một con người có lòng tốt, không chấp nhận bất công nhưng lại đơn giản khi nhìn nhận cuộc sống.
– Chứng kiến cảnh tượng người đàn bà bị đánh đập một cách đầy vô lí như thế, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đã đánh nhau với lão chồng để bảo vệ chị ta, để rồi bị thương, với những vết thương trên mặt đã lên da non nhưng vẫn còn lại dấu tích. Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng cũng cảm thấy hết sức bức bối khi nghe người phụ nữ van xin vị chánh án đừng bắt chị phải li hôn với người chồng vũ phu. Cảm giác căn phòng ngủ lồng lộng gió của chánh án Đẩu (bạn anh) tự nhiên bị hút hết không khí và trở nên ngột ngạt quá!
– Những lời nói chẳng dễ nghe chút nào của người đàn bà hàng chài khiến cho Phùng phải suy nghĩ: “Chị cám ơn các chú, lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Những câu hỏi lạc đề “Lão ta trước hồi 75 có đi lính ngụy không?” cho thấy Phùng cũng lại bị định kiến chi phối. Rồi Phùng thốt lên “không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được”, đúng, Phùng không thể hiểu cái lí của sự cam chịu ở những con người phải sống trong vòng vây của cái đói nghèo, lạc hậu, của cuộc sống nhọc nhằn, không thể hiểu “suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái ăn toàn cây xương rồng luộc chấm muối”, cũng không thể hiểu sự đan cài giữa tình thương và hành động tàn nhẫn, giữa niềm vui và nỗi buồn trong một gia đình… và “bởi vì, các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của một người đàn bà trên chiếc thuyền không có đàn ông… dù hắn man rợ và tàn bạo”.
– Câu chuyện mà người đàn bà hàng chài kể ở toà án đã giúp Phùng hiểu ra: Người đàn bà không hề cam chịu một cách vô lí, không hề nông nổi một cách ngờ nghệch mà thực ra chị ta là người rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. Người phụ nữ này có một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ nhưng biết chắt chiu những hạnh phúc đời thường. Sống cam chịu và kín đáo, hiểu sâu sắc lẽ đời nhưng chị không để lộ điều đó ra bên ngoài. Đây là người phụ nữ có ngoại hình xấu xí, thô kệch nhưng tâm hồn đẹp đẽ, thấp thoáng bóng dáng của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu đức hi sinh và lòng vị tha.
– Qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài Phùng cũng nhận ra người đồng đội cũ – chánh án Đẩu cũng có lòng tốt giống anh, sẵn sàng bảo vệ công lí nhưng chánh án Đẩu chưa thực sự đi sâu vào đời sống nhân dân. Lòng tốt là đáng quý nhưng chưa đủ. Luật pháp là cần thiết nhưng cần phải đi vào đời sống. Cả lòng tốt và luật pháp đều phải được đặt vào những hoàn cảnh cụ thể, không thể áp dụng với mọi đối tượng và có những vấn đề không thể giải quyết bằng luật pháp. Và cũng qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài nghệ sĩ Phùng cũng nhận ra: Mình đã đơn giản khi nhìn nhận cuộc đời và con người.
Những thông điệp nghệ thuật về cách nhìn nhận con người và cuộc đời: Đừng bao giờ nhìn nhận cuộc đời và con người một cách dễ dãi, xuôi chiều. Cần phải nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng trong hoàn cảnh cụ thể của nó và trong quan hệ với nhiều yếu tố khác nữa.
*Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng chính là “điểm nhìn nghệ thuật” của nhà văn, là hình tượng nhân vật kể chuyện vừa đem lại tính chân thực và hấp dẫn cho câu chuyện kể vừa tạo ra một khoảng cách, một “cự ly”, một độ lùi nhất định để suy ngẫm. Hình ảnh người nghệ sĩ “khoác máy ảnh đi lang thang cho đến tận khuya” đã gián tiếp nói rằng: nhận thức của Phùng thực sự đã đổi khác, anh đã để ngỏ tâm hồn mình cho bao cảnh sắc của một hiện thực ít thi vị ùa tới “trời trở gió đột ngột, từng mảng mây đen xếp ngổn ngang trên mặt biển đen ngòm, và biển bắt đầu gào thét, sóng bạc đầu và “… chiếc thuyền đang chống chọi với sóng gió giữa phá”. Chiếc thuyền được đặt trong khung cảnh dữ dội của một cơn biển động, cuộc vật lộn mưu sinh nhọc nhằn vẫn còn đó. Nó cho thấy rằng, chiếc thuyền ngoài xa đâu chỉ là vấn đề về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống. Sức ám ảnh người đọc ở tác phẩm này còn là mối quan hoài đến xót xa, day dứt của nhà văn về những nỗi nhọc nhằn đau khổ của con người, giống như những người đi biển họ vẫn luôn phải chống chọi với phong ba và bão táp và cuộc sống vốn chẳng bao giờ bình yên.
Truyện ngắn kết thúc bằng những suy nghĩ cảm nhận của người nghệ sĩ mỗi lẫn ngắm bức ảnh được chụp tại vùng biển nọ: nhìn kĩ vào bức ảnh đen trắng, người nghệ sĩ đều thấy “hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai”. Và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy “người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh…”. “Cái màu hồng hồng của ánh sương mai” là chất thơ của cuộc sống, là vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, là biểu tượng của nghệ thuật. Còn hình ảnh “người đàn bà ấy bước ra khỏi bức tranh” là hiện thân của những lam lũ, khốn khó của đời thường. Nó là sự thật cuộc đời đằng sau bức tranh.
5.2 Người đàn bà hàng chài
* Ngoại hình : có vẻ ngoài xâu xí, thô kệch “vốn là đứa con gái xấu lại rỗ mặt sau một bận lên đậu mùa”. Người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn này đâu có được cái nhan sắc “trời phú”, chị ta xấu xí, khuôn mặt rỗ càng khó nhìn hơn khi chị ta bước sang cái tuổi trạc ngoài 40.
* Số phận, cuộc đời :
+ Số phận kém may mắn: Trong câu chuyện về cuộc đời mình, chị đã nhận thức được rất rõ sự kém may mắn của mình: “cũng vì xấu, trong phố không ai lấy, tôi có mang với một anh con trai của một hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới”.
+ Cuộc đời lam lũ, vất vả.
* Tính cách :
– Một người đàn bà cam chịu, nhẫn nhục.
+ Hành động và lời nói của người chồng :“trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ, đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”.
+ Trước hành động rất tàn bạo của người chồng, người đàn bà hàng chài đã không hề kêu một tiếng, không chống trả cũng không tìm cách chạy trốn.
– Giàu lòng tự trọng.
+ Chồng đánh như vậy, chị ta đâu có khóc
+ Nhưng chỉ sau khi biết được hành động vũ phu của chồng đã bị thằng Phác và người khách lạ (nghệ sĩ Phùng) phát hiện chị lại cảm thấy đau đớn, vừa đau đớn, vừa vô cùng xấu hổ và nhục nhã. Nhiều khi, sự đau đớn do đòn roi không thể làm con người ta bật khóc, điều này đúng trong trường hợp của người đàn bà hàng chài. Những giọt nước mắt đau đớn chứa đựng biết bao sự nhọc nhằn chỉ thực sự rơi khi thấy đứa con yêu của mình chứng kiến cảnh tượng mình bị chồng đánh, chỉ thực sự rơi khi có người khách lạ chứng kiến
– Sống rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời, hiểu chồng, thương con vô bờ bến, một người phụ nữ vị tha giàu đức hy sinh.
+ Được mời đến tòa án huyện để giải quyết việc gia đình, lúc đầy chị ta rụt rè, tìm một góc tường ở chốn công đường kia để ngồi. Nhà văn có miêu tả, đây không phải là lần đầu người đàn bà đến chốn công đường nhưng người đàn bà ấy vẫn có cái vẻ sợ sệt, lúng túng- cái sợ sệt lúng túng ấy ngay lúc chị ta đứng ở bãi xe tăng cũng không hề thấy có. Chị thấy sợ hãi khi đến một không gian lạ. Chị ta thật tội nghiệp, cái thế ngồi bị động, ngồi vào mép ghế và cố thi người lại, ngồi như thể để tự vệ cho dù đã được Đẩu nói bằng những lời rất thân mật, chia sẻ, cảm thông.
+ Nguyễn Minh Châu đã dụng công nhấn vào sự thay đổi ngôn ngữ và tâm thế của người đàn bà hàng chài. Ban đầu, khi gặp chánh án Đẩu, chị còn xưng “con” và có lúc đã van xin, “con lạy quý tòa”… “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Nhưng khi thấy Phùng xuất hiện, đang cúi gục lập tức người đàn bà hàng chài ngẩng lên, nhìn thẳng, “ chị cám ơn các chú…. Lòng cách chú tốt nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Vẻ bề ngoài khúm núm, sợ sệt, điệu bộ khác, ngôn ngữ khác đã làm cho cả Đẩu và Phùng hết sức ngạc nhiên. Người đàn bà hàng chài kia không hề giản đơn như Đẩu và Phùng nghĩ. Thì ra, cái nghề chài lưới trên một chiếc thuyền vó bè lênh đênhh không thể thiếu bàn tay và sức lực của người đàn ông. Để duy trì sự tồn tại cho cả gia đình thì họ phải hợp sức lại mà làm quần quật để nuôi một đàn con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Tình cảnh của người đàn bà hàng chài kia cũng như của bao gia đình hàng chài khác, trừ phi chị nói “giá tôi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rông hơn”
+ Trong câu chuyện kể về cuộc đời mình, người đàn bà hàng chài kia đã chấp nhận đau khổ, coi nỗi khổ vận vào đời mình như một lẽ đương nhiên. Chị sống cho con chứ không phải là sống cho mình. Nếu những phụ nữ trên các thuyền khác chấp nhận
người đàn ông uống rượu thì chị cũng chấp nhận để chồng đánh chỉ xin chồng là đánh ở trên bờ, đừng để các con nhìn thấy. Đó là một cách ứng xử rất nhân bản.
+ Ở đây, lẽ đời đã chiến thắng. Người lao động lam lũ, nghèo khổ không có uy quyền nhưng có cái tâm của một người thương con, thấu hiểu lẽ đời cũng là một thứ quyền uy có sức công phá lớn. Nó đã làm chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng thức nhận được nhiều điều. Thức nhận được, nỗi nhọc nhằn vất vả trong công việc làm ăn của cư dân vùng biển. Thức nhận được cuộc sống bấp bênh khiến họ phải chấp nhận không ít những nghịch cảnh, những ngang trái. Thức nhận được người đàn bà kia không hề chịu đòn roi một cách vô lí, cả Đầu và Phùng chua chát nhận ra rằng : trên thuyền cần có một người đàn ông… dù hắn man rợ, tàn bạo, cần có một người đàn ông để chèo chống khi biển phong ba bão táp. Thức nhận được ở người phụ nữ ấy chứa đựng mẫu tính sâu xa như một bản năng: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”, những lời lẽ ấy của người đàn bà hàng chài được thốt lên từ một niềm tin đơn giản mà vững chắc vào cái thiên chức mà trời đã giao phó cho người đàn bà. Thức nhận được rằng, người đàn bà hàng chài kia rất biết tìm cho mình những niềm vui, hạnh phúc dẫu rất nhỏ nhoi trong cuộc sống đầy khó khăn. Ở chị vững bền một niềm tin, một tình yêu và sự lạc quan vào cuộc sống. Hãy biết sống ngay khi cả cuộc đời không thể chịu được nữa, nụ cười chợt ửng sáng lên trên khuôn mặt rỗ chằng chịt chị nghĩ đến “trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận vui vẻ” và niềm vui “nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Hạnh phúc với người đàn bà hàng chài kia thật giản dị mà không kém phần sâu sắc. Thức nhận được nỗi đau, cũng như sự thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời người đàn bà kia không bao giờ để lộ ra bên ngoài cả
Kết thúc truyện ngắn, người đọc vẫn không biết người đàn bà hàng chài kia tên gì, phải chăng là nhà văn đã sơ xuất? Không phải, đó chính là dụng ý nghệ thuật của nhà văn, người nghệ sĩ nhiếp ảnh kể rằng mỗi khi nắm thật kĩ bức ảnh mà mình chụp anh lại thấy người đàn bà hàng chài ấy bước ra từ bức ảnh “mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân rậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông….” nghĩa là người đàn bà ấy chỉ là một người trong đám đông của những con người lam lũ, nhọc nhằn, những con người lao khổ, đông đúc và vô danh. Qua nhân vật người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu cũng khẳng định: sự lam lũ, vất vả, nhọc nhằn không làm mất đi ở người phụ nữ vùng biển nói riêng, người phụ nữ VN nói chung tấm lòng yêu thương, nhân hậu bao dung, vị tha. Và với người phụ nữ, gia đình hạnh phúc là gia đình trọn vẹn các thành viên cho dù đây đó vẫn có những tính cách chưa hoàn thiện.
5.3. Một số nhân vật khác
– Chánh án Đẩu :
+ Là người đại diện cho công lý, luật pháp; có lòng tốt, sẵn sàng bảo vệ công lý.
+ Nhưng Đẩu mới nhìn cuộc đời của người đàn bà vùng biển ở một phía, anh chưa thực sự đi sâu vào đời sống nhân dân.
– Nhân vật người chồng của người đàn bà hàng chài
+ Vốn là một “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm”
+ Một gã đàn ông vũ phu, tàn nhẫn, ích kỉ.
+ Một nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt.
– Thằng bé Phác
+ Một cậu bé giàu tình cảm yêu thương đối với mẹ.
+ Nhưng cũng giống như Đẩu, Phùng, nó mới chỉ nhìn thấy ở cha nó ở khía cạnh độc ác, tàn nhẫn mà chưa hiểu được “lẽ đời” bên trong.
+ Hình ảnh tiêu biểu của những đứa trẻ trong những gia đình có nạn bạo hành.
6. Đặc sắc nghệ thuật
– Tình huống truyện độc đáo, “tình huống nhận thức”, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về chân lí đời sống, chân lí nghệ thuật.
– Ngôi kể, điểm nhìn nghệ thuật sắc sảo, đa diện.
– Lời văn giản dị mà sâu sắc.
7. Chủ đề
Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sự cảm thông sâu sắc đối với những cảnh đời, những thân phận trớ trêu, gặp nhiều bất hạnh trong cuộc sống đồng thời gửi gắm những chiêm nghiệm sâu sắc của mình về nghệ thuật : nghệ thuật chân chính phải luôn luôn gắn bó với cuộc đời và vì cuộc đời; người nghệ sĩ không thể nhìn đời một cách giản đơn, cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người một cách đa diện, nhiều chiều.

Đề thi thử đại học bài : VIỆT BẮC ( Tố Hữu )

Đề thi thử đại học môn văn 2016 khối D 9
1. Thể thơ : truyền thống của dân tộc: lục bát, gồm 150 câu.
2. Hoàn cảnh sáng tác:
– Việt Bắc là khu căn cứ của cách mạng Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp.
– Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi . Tháng 7 / 1954 , hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết . Hòa bình lập lại , miền Bắc được giải phóng và đi lên xây dựng CNXH một trang sử mới của đất nước mở ra.
– Tháng 10/ 1954 , TW Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc về Hà Nội , những người kháng chiến ( trong đó có Tác giả Tố Hữu ) từ căn cứ miền núi về miền xuôi chia tay Việt Bắc , chia tay khu căn cứ Cách mạng trong kháng chiến.
Nhân sự kiện có tính lịch sử này Tố Hữu sáng tác bài thơ “ Việt Bắc “ Bài thơ “ Việt Bắc “ là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp.
3. Nội dung chính :
– Tái hiện những kỉ niệm Cách mạng, kháng chiến Khẳng định, ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, con người Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp.
+ Thiên nhiên Việt Bắc vừa nên thơ, trữ tình vừa hùng vĩ, tráng lệ.
+ Con người Việt Bắc hăng say lao động, sâu nặng ân tình với cách mạng, kháng chiến.
– Gợi viễn cảnh tươi sáng của đất nước, ca ngợi công lao của Đảng và Bác Hồ trong kháng chiến chống Pháp.
– Thể hiện tình cảm của Tố Hữu đối với quê hương Cách mạng Việt Bắc : yêu mến, gắn bó, tự hào về truyền thống cao đẹp của dân tộc, đất nước.
Việt Bắc là khúc hùng ca, tình ca về Cách mạng , về kháng chiến , về những con người trong kháng chiến chống Pháp.
a. Đoạn 1: Cảnh chia tay giữa những người Việt Bắc và cán bộ kháng chiến
Mình về mình có nhớ ta……………Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
* Bốn câu thơ mở đầu là lời người Việt Bắc:
– Đoạn thơ thể hiện rõ tình cảm của “ta” khi đưa tiễn.Người Việt Bắc hỏi người cách mạng về xuôi:
Mình về mình có nhớ ta …..Mình về mình có nhớ không
– “Ta” ở đây là người Việt Bắc ( người ở lại) , có thể là cô gái Việt Bắc , có thể là đồng bào Việt Bắc’ “ mình “ ở đây là người cán bộ Cách mạng , là anh bộ đội cụ Hồ.
– Bốn câu thơ mở đầu cất lên thật tha thiết bồi hồi , cảm xúc được nén lại trong lòng bỗng ùa dậy và trào lên. “Ta” hỏi “mình” hay ta đang hỏi lòng ta trong buổi phân li ấy. Lời hỏi da diết của người Việt Bắc gợi lại trong lòng người ở , người đi kỉ niệm 15 năm gắn bó. Tình nghĩa giữa “ta” với “ mình” không phải là ngày một ngày hai mà đã giao hòa , gắn kết “ thiết tha”, “mặn nồng” trong suốt 15 năm trời kể từ ngày khởi nghĩa Bắc Sơn (năm 1940 )đến ngày miền Bắc hoàn toàn giải phóng(năm 1954).
– Lời hỏi tha thiết của người Việt Bắc cũng chính là lời gợi nhớ những kỉ niệm giữa Việt Bắc và người Cách mạng trong 15 năm qua. 15 năm trong kháng chiến nhiều gian lao , vất vả càng sâu nặng ân tình.

– Người Việt Bắc hỏi người Cách mạng về như thế có nhớ ta không nhưng thực chất người Việt Bắc đang thể hiện tình cảm của mình khi chia tay người cách mạng. Người cách mạng chưa đi thì người Việt Bắc đã nhớ:
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn?
Kỉ niệm trong 15 năm không ít , giờ chia xa người Cách mạng người Việt Bắc nhìn cảnh mà nhớ người xưa. Cảnh còn đấy nhưng người đã đi xa, người cách mạng phải về xuôi theo yêu cầu của nhiệm vụ , người ở lại nhớ nhung tha thiết,…
Câu hỏi tu từ của người Việt Bắc khi đưa tiễn người cách mạng mở ra một chân trời thương nhớ. Cảm xúc nhớ nhung da diết ấy chính là biểu hiện của tình cảm sâu nặng mà người Việt bắc dành cho người Cách mạng.
* Bốn câu thơ tiếp theo gợi tả không gian nghệ thuật, tâm trạng của người đi kẻ ở trong buổi chia tay.
– Tiếng hát của ai tha thiết cất lên bên cồn hay chính tiếng lòng tha thiết của người Việt Bắc làm cho người ra đi thật sự xúc động.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Tố Hữu thật tài tình, khéo léo khi sử dụng hai từ láy diễn tả tâm trạng trong một câu thơ : bâng khuâng, bồn chồn. Tình cảm của người Cách mạng và người Việt Bắc trong 15 năm kháng chiến thật sâu sắc, vì thế khi chia tay càng bịn rịn, luyến lưu. Người cách mạng phải về xuôi vì nhiệm vụ mới khi cuộc chiến kết thúc, nhưng chia tay Việt Bắc sao mà khó đến thế!Chân bước đi mà lòng không muốn đi.
– Cảnh chia tay giữa người Việt Bắc và người Cách mạng được tác giả tái hiện lại thật xúc động qua hai câu Áo chàm đưa buổi phân li…
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Áo chàm là hình ảnh hoán dụ , chỉ người Việt Bắc. “Áo chàm đưa buổi phân li” là người Việt Bắc đi đưa tiễn người cách mạng. Trong giờ khắc chia ta đầy lưu luyến, bịn rịn , tấm chân tình của kẻ ở người đi gửi qua cái bắt tay , bắt tay để chia tay. Họ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…” , họ không biết nói gì không phải không có gì để nói , phải chăng điều muốn nói quá nhiều, kỉ niệm quá nhiều, ân tình sâu sắc quá nên không thể nào nói hết, diễn tả hết.Vì thế mà họ chỉ biết gửi tất cả qua cái bắt tay mà lòng nghẹn ngào.
Cảnh chia tay thật bịn rịn, lưu luyến thể hiện tình cảm sâu nặng giữa người cách mạng và người Việt Bắc.
– Đoạn thơ còn là thành công của tác giả ở nghệ thuật thể hiện:
+ Thể thơ lục bát của dân tộc rất phù hợp với việc diễn tả tình cảm .
+ Lời thơ là lời hỏi – gợi nhớ với giọng điệu tha thiết , tâm tình.
+ Cách xưng hô ta – mình thân thiết, gần gũi , đậm phong vị ca dao.
+ Điệp từ “ nhớ” nhằm nhấn mạnh nỗi nhớ thể hiện tình cảm sâu nặng.
Đoạn thơ mở đầu là cảnh chia tay thật bịn rịn , lưu luyến giữa người Việt Bắc và người cách mạng . Cái tài của Tố Hữu là chuyện ân tình cách mạng được tác giả khéo léo thể hiện như chuyện tình cảm lứa đôi. Chính vì thế mà thơ Tố Hữu là thơ chính trị nhưng rất đỗi trữ tình, đi sâu vào lòng người.
Đoạn thơ chỉ có tám câu ngắn gọn nhưng mở ra một trời thương nhớ, một ân tình sâu nặng giữa những người Cách mạng và quê hương cách mạng trong kháng chiến chống Pháp.
b. Đoạn 2 : Lời người Việt Bắc hỏi người cách mạng về xuôi
Mình đi có nhớ những ngày……..Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.
– Người cách mạng và người Việt Bắc từng “đồng cam cộng khổ” trong suốt 15 năm kháng chiến, chia tay người Cách mạng người Việt Bắc bịn rịn, lưu luyến . Người Việt Bắc hỏi người Cách mạng “ Mình đi có nhớ …” , “ Mình về có nhớ … . Điệp ngữ “ có nhớ” láy lại 5 lần ở các câu lục tạo nên cảm giác bâng khuâng, bồn chồn, tha thiết.
– Mỗi lời hỏi của người Việt Bắc là lời gợi nhớ những kỉ niệm trong kháng chiến chống Pháp nên đoạn thơ đầy ắp những kỉ niệm về Việt Bắc: mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù , miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai, trám bùi , măng mai,…
Mình đi có nhớ những ngày………….Trám bùi để rụng măng mai để già
+ Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù – những ngày tháng gian nan ,thử thách nơi núi rừng Việt Bắc .
+ Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai – cuộc sống trong kháng chiến thiếu thốn , khổ cực nhưng quân dân Việt Bắc cùng chung mối thù với giặc Pháp nên họ “ đồng cam cộng khổ “ kháng chiến.
+ Trám bùi để rụng, măng mai để già – Trám bùi, măng mai là nguồn thức ăn vô tận của Việt Bắc để nuôi bộ đội đánh giặc trong những ngày gian khổ . Hương vị núi rừng ấy tượng trưng cho Việt Bắc sâu nặng ân tình. Người Cách Mạng về xuôi rồi thì trám không ai hái, măng không ai bẻ nên trám rụng, măng già. “Mình” về xuôi để lại bao thương nhớ cho” ta “, cho cỏ cây, cho núi rừng Việt Bắc. “ Rừng núi” , “ trám “ ,” măng” được nhân hóa mang bao nỗi nhớ, bao nỗi buồn thương. Cảnh vật như hòa lệ , các chữ “rụng”, “già” gợi nhiều man mác, bơ vơ.
– Con người Việt Bắc sâu nặng ân tình , làm sao có thể quên được :
Mình đi có nhớ những nhà.Hắt hiu lau xám,đậm đà lòng son
“ Những nhà” là tất cả đồng bào dân tộc Việt Bắc . “ Hắt hiu lau xám” là cảnh hoang vu, vắng lặng của núi rừng gợi cuộc sống còn nghèo đói, thiếu thốn về vật chất. Tương phản với “Hắt hiu lau xám” là “ đậm đà lòng son”, “ đậm đà lòng son” là hình ảnh ẩn dụ rất đẹp ca ngợi tấm lòng thủy chung , son sắt của người Việt Bắc đối với Cách mạng, kháng chiến.
Tố Hữu đã sáng tạo ra những hình ảnh tượng trưng, tương phản lau xám – lòng son nhằm ngợi ca đồng bào Việt Bắc: tuy nghèo khổ, thiếu thốn nhưng tình yêu nước, cách mạng vẫn thủy chung son sắt, vẫn đậm đà. Đây cũng chính là vần thơ đẹp nhất, cảm động nhất nói về nỗi nhớ, lòng biết ơn và lòng tự hào đối với Việt Bắc.
– Việt Bắc là đầu nguồn, là cái nôi của cách mạng, kháng chiến , là căn cứ địa của Việt Minh thời chống Nhật ; Tân Trào là nơi đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân làm lễ xuất kích ( 12/1944); mái đình Hồng Thái là nơi họp Quốc dân đại hội ( 8/1945). Việt Bắc là chiến khu bất khả xâm phạm, là thủ đô gió ngàn nên không dễ ai quên Những địa danh lịch sử, núi non, mái đình, cây đa,…đã trở thành kỉ niệm sâu sắc trong lòng kẻ ở người về
“ Mười lăm năm ấy ai quên. Quê hương Cách mạng dựng nên cộng hòa”
– Đoạn thơ còn là thành công của tác giả ở nghệ thuật thể hiện:
+ Thể thơ lục bát của dân tộc rất phù hợp với việc diễn tả tình cảm .
+ Lời thơ là lời hỏi – gợi nhớ với giọng điệu tha thiết , tâm tình.
+ Cách xưng hô mình – mình thân thiết, gần gũi , đậm phong vị ca dao.
+ Điệp ngữ “ có nhớ” nhằm nhấn mạnh nỗi nhớ thể hiện tình cảm sâu nặng.
Nghệ thuật thể hiện đậm tính dân tộc.
– Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, Tố Hữu đã sống và hoạt động tại Việt Bắc cùng đồng đội, đồng bào; trải qua những tháng ngày gian khổ nhưng hào hùng, vinh quang. Tình cảm thiết tha sâu nặng của kẻ ở người đi làm cho buổi tiễn đưa thêm bịn rịn, luyến lưu.
Đoạn thơ là lời tiễn đưa người cách mạng của người Việt Bắc , đoạn thơ đầy ắp những kỉ niệm về Việt Bắc thể hiện ân tình sâu nặng giữa Việt Bắc và Cách mạng. Đoạn thơ còn là lời ngợi ca quê hương Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp và tình cảm yêu mến, biết ơn, tự hào về Việt Bắc của tác giả Tố Hữu.
c. Đoạn 3 : Nhớ cảnh thiên thiên và con người Việt Bắc trong kháng chiến
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người………..Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
*Hai câu thơ đầu là lời hỏi – đáp của ta, của người cán bộ kháng chiến về xuôi , ta hỏi mình có nhớ ta . Người cách mạng về xuôi hỏi người Việt Bắc để bộc bạch tâm trạng của mình là dù về xuôi, dù xa cách nhưng lòng ta vẫn gắn bó thiết tha với Việt Bắc “Ta về ta nhớ những hoa cùng người” .
Chữ “ta”, chữ “ nhớ” được điệp lại thể hiện tấm lòng thủy chung son sắt , nỗi nhớ ấy hướng về “ những hoa cùng người”, hướng về thiên nhiên núi rừng và con người Việt Bắc.
* Tám câu thơ tiếp theo , mỗi cặp lục bát nói lên một nỗi nhớ cụ thể về cảnh sắc, con người Việt Bắc trong bốn mùa đông , xuân, hè, thu.
– Nhớ mùa đông Việt Bắc:
“ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
– Nhớ mùa đông là nhớ màu xanh của núi rừng Việt Bắc, nhớ màu đỏ của hoa chuối như những ngọn lửa thắp sáng rừng xanh , sắc đỏ tươi của hoa chuối giữa sắc xanh của núi rừng làm cho núi rừng Việt Bắc mùa đông không lạnh lẽo , không úa tàn mà ấm áp , tươi tắn vô cùng. Cái tài của Tố Hữu là sử dụng gam màu nóng để vẽ bức tranh thiên nhiên Việt Bắc mùa đông thật đẹp và không thể quên.
– Nhớ mùa đông Việt Bắc còn nhớ người đi nương rẫy “ dao gài thắt lưng” trong tư thế mạnh mẽ hào hùng đứng trên đèo cao “nắng ánh “, con dao của người đi nương rẫy phản quang rất gợi cảm.
Màu “xanh” của rừng, màu “đỏ” của hoa chuối, màu sáng lấp lánh của “ nắng ánh” từ con dao , màu sắc hòa hợp làm bật sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Con người Việt Bắc trong tư thế làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời trong kháng chiến.
– Nhớ ngày xuân Việt Bắc:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
– Nhớ ngày xuân Việt Bắc là nhớ hoa mơ “nở trắng rừng”, câu thơ miêu tả độc đáo của tác giả gợi một thế giới hoa mơ bao phủ mọi cánh rừng Việt Bắc , sắc trắng tinh thiết của hoa mơ mở ra một không gian bao la, thoáng mát và tràn đầy sức sống. Cách dùng từ tài hoa của Tố Hữu gợi nhớ câu thơ tả mùa xuân khá độc đáo của đại thi hào Nguyễn Du:
“ Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
– Nhớ người thợ thủ công cần mẫn, khéo léo “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang” . “ Chuốt “ là làm bóng sợi giang mỏng manh .Có khéo léo, cần mẫn, tỉ mỉ thì mới có thể “ chuốt từng sợi giang” để đan thành những chiếc nón , chiếc mũ phục vụ kháng chiến , để anh bộ đội đi chiến dịch có “ ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Người đan nón được nhà thơ nói đến tiêu biểu cho vẻ đẹp tài hoa , sáng tạo của đồng bào Việt Bắc.
– Nhớ mùa hè Việt Bắc : Nhớ mùa hè Việt Bắc với tiếng ve kêu làm nên khúc nhạc rừng, nhớ màu vàng của rừng phách , nhớ cô thiếu nữ đi hái măng một mình,…
Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình
– Một chữ “ đổ “ tài tình, tiếng ve kêu như trút xuống , “đổ” xuống thúc giục ngày hè trôi nhanh , làm cho rừng phách thêm vàng thiên nhiên Việt Bắc ngày hè thật tươi đẹp, sinh động .
– Nhớ con người Việt Bắc , nhớ cô gái đi hái măng một mình “Nhớ cô em gái hái măng một mình” Câu thơ độc đáo, giàu vần điệu, thanh điệu , giàu chất nhạc, chất thơ tạo một không gian nghệ thuật đẹp và vui , đầy màu sắc và âm thanh. Cô gái đi hái măng một mình nhưng vẫn không lẻ loi bởi cô gái ấy đang lao động giữa khúc nhạc rừng, hái măng để góp phần nuôi quân phục vụ kháng chiến. Hình ảnh cô gái hái mămg gợi nét đẹp trẻ trung, yêu đời và hết lòng phục vụ cách mạng, phục vụ kháng chiến của con người Việt Bắc.
– Nhớ mùa thu Việt Bắc : Nhớ mùa hè rồi nhớ mùa thu Việt Bắc , nhớ khôn nguôi ánh trăng ngà , tiếng hát ,….
Rừng thu răng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
– Trăng Việt Bắc trong thơ Bác Hồ là “ Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”. Trăng Việt Bắc trong thơ Tố Hữu là “ trăng rọi hòa bình”. Người Cách mạng về xuôi nhớ trăng Việt Bắc giữa rừng thu, trăng rọi qua tán lá rừng xanh, trăng dịu mát nên thơ, trữ tình ,… khiến lòng người ngây ngất.
– Nhớ người Việt Bắc : “Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung” . “ Ai” là đại từ nhân xưng phiếm chỉ, “ nhớ ai” là nhớ về tất cả , về người dân Việt Bắc giàu tình nghĩa thủy chung đã hy sinh quên mình cho cách mạng, cho kháng chiến.
Đoạn thơ mang vẻ đẹp của một bức tranh tứ bình đặc sắc, đậm đà phong cách dân tộc. Mở đầu cuộc kháng chiến chống Pháp là mùa đông năm 1946, đến mùa thu tháng 10 năm 1954 thủ đô Hà nội được giải phóng. Tố Hữu thể hiện nỗi nhớ Việt Bắc qua bốn mùa đông – xuân- hè – thu theo dòng chảy lịch sử . Mỗi mùa ở Việt Bắc có một nét đẹp riêng dạt dào sức sống : màu xanh của rừng, màu đỏ tươi của hoa chuối, màu trắng của hoa mơ, màu vàng của rừng phách, màu trăng xanh hòa bình . Thiên nhiên Việt Bắc thật nên thơ, hữu tình và mang màu sắc cổ điển qua nét bút tài hoa của Tố Hữu. Con người Việt Bắc được tác giả nhắc đến không phải là ngư, tiều, canh, mục mà là người đi nương rẫy, người đan nón, người đi hái măng ,… Đó là những con người Việt Bắc toả sáng nét đẹp cao quý trong lao động và kháng chiến: cần cù, làm chủ thiên nhiên và làm chủ cuộc đời trong lao động, khéo léo, tài hoa, trẻ trung, yêu đời,… và hết lòng phục vụ cách mạng, phục vụ kháng chiến.
* Đoạn thơ là thành công của tác giả ở nghệ thuật thể hiện:
+ Thể thơ lục bát của dân tộc
+ Lời thơ là lời hỏi – gợi nhớ với giọng điệu ngọt ngào , tha thiết , tâm tình.
+ Cách xưng hô ta – mình thân thiết, gần gũi , đậm phong vị ca dao.
+ Điệp từ “ nhớ “ nhằm nhấn mạnh nỗi nhớ thể hiện tình cảm sâu nặng.
+ Bút pháp miêu tả đặc sắc: kết hợp hình ảnh, màu sắc, âm thanh ,…
+ Câu trúc đoạn thơ cân xứng hài hòa: một câu tả cảnh, một câu tả người và cả đoạn thơ là bức tranh về thiên nhiên và con người Việt Bắc.
Đoạn thơ dạt dào tình thương mến , nỗi thiết tha bổi hồi như thấm sâu vào cảnh và người , kẻ ở người về thì “ mình nhớ ta”, “ta nhớ mình” . Tình cảm ấy vô cùng sâu nặng , biết bao ân tình thủy chung. Năm tháng đi qua nhưng ân tình cách mạng giữa Việt Bắc và người về xuôi vẫn mãi mãi như một dấu son đỏ thắm in đậm trong hồn người.
Đoạn thơ là lời ngợi ca quê hương Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp. Qua đó thể hiện tình cảm của Tố Hữu với Việt Bắc, với Cách mạng: Yêu mến, tự hào, biết ơn Đoạn thơ gợi lên trong lòng người đọc tình mến yêu Việt Bắc, tự hào về đất nước và con người Việt Nam.
d. Đoạn 4 : Nhớ Việt Bắc ra trận kháng chiến chống Pháp
Nhớ khi giặc đến giặc lùng……….. Nhớ từ Cao – Lạng , nhớ sang Nhị Hà .
* Mở đầu đoạn thơ là nỗi nhớ của người cách mạng Nhớ những ngày thực dân Pháp đến quê hương Việt Bắc và Việt Bắc ra trận đánh Tây.
Nhớ khi giặc đến giặc lùng……….Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Với bút pháp nhân hóa Cả Việt Bắc ra trận : “Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây” – Cả Việt Bắc phối hợp tạo nên sức mạnh chống Pháp. Núi biết giăng thành lũy sắt dày để ngăn cản quân thù , để bảo vệ cho quân dân Việt Bắc. Rừng Việt Bắc biết che bộ đội và biết vây bắt quân thù.
Những câu thơ đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn tái hiện được khí thế ra trận của quân dân Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp.
Quân dân Việt Bắc ra trận với tinh thần đoàn kết : Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng
Sức mạnh của tinh thần đoàn kết sẽ làm nên những chiến thắng khải hoàn trong kháng chiến chống Pháp.
Người cách mạng nhớ những tháng ngày xung trận chống Pháp Nhớ quá khứ hào hùng đáng trân trọng, tự hào của dân tộc.
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng.
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng.
Nhớ từ Cao – Lạng , nhớ sang Nhị Hà …

* Bốn câu thơ tiếp theo là lời hỏi đáp giữa mình với ta, giữa kẻ ở và người về .
– Ai về ai có nhớ không ? câu hỏi phiếm chỉ, hình như không hỏi riêng một người nào mà hỏi tất cả,hỏi nhà thơ, hỏi người cán bộ cách mạng, hỏi anh bộ đội từng gắn bó với VIệt Bắc trong kháng chiến chống Pháp. Một câu hỏi gợi nhiều lưu luyến bâng khuâng, đậm đà nghĩa tình giữa người đi người ở.
– Sau câu hỏi “ Ai về ai có nhớ không?” là câu trả lời “ Ta về ta nhớ …” Nỗi nhớ tha thiết của người về xuôi khi chia xa Việt Bắc:
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng.
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng.
Nhớ từ Cao – Lạng , nhớ sang Nhị Hà …
Chỉ một chữ “ nhớ” trong câu hỏi mà có đến năm chữ “ nhớ” thiết tha trả lời. Nỗi nhớ bao trùm tất cả, nhớ đèo, nhớ sông, nhớ phố, nhớ những trận đánh đẫm máu , nhớ những chiến công oai hùng một thời oanh liệt. Nhớ Phủ Thông, đèo Giàng với lưỡi mác và ngọn giáo , anh bộ đội cụ Hồ trong tư thế dũng sĩ lẫm liệt đã làm cho giặc Pháp bạt vía kinh hồn. “ Nhớ sông Lô” là nhớ chiến thắng Việt Bắc thu đông năm 1947 , tàu giặc Pháp bị đắm sông Lô. “ Nhớ phố Ràng” là nhớ trận chiến có pháo binh tham gia vào cuối năm 1949 , đánh dấu bước trưởng thành trong khói lửa của quân đội ta để từ đó tiến lên đánh lớn và thắng lớn trong chiến dịch Biên giới giải phóng Cao Bằng, Lạng Sơn: “ Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà…”. “Nhớ từ” …nhớ sang” gợi nỗi nhớ dạt dào, mênh mông, da diết,…
Đoạn thơ với hàng loạt các địa danh cụ thể của Việt Bắc như những trang kí sự chiến trường nối tiếp xuất hiện để lại bao tự hào trong lòng người đọc . Có biết bao máu đổ xương rơi , biết bao anh hùng ngã xuống mới có thể đưa tên núi , tên sông, tên đèo nơi Việt Bắc vào lịch sử, vào thơ ca và tạc vào lòng dân tộc nỗi nhớ mênh mang ấy.
Đoạn thơ là thành công của tác giả ở nghệ thuật thể hiện:
+ Thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc.
+ Điệp từ “ nhớ” và liệt kê hàng loạt các trận đánh lớn của Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp.
Đoạn thơ là nỗi nhớ Việt Bắc trong những trận đánh lớn và thắng lớn. Lời ngợi ca Việt Bắc anh hùng trong kháng chiến và niềm tự hào của tác giả, của người cách mạng về quê hương cách mạng.
e. Đoạn 5 :Nhớ Việt Bắc ra trận kháng chiến và chiến thắng.
Những đường Việt Bắc của ta…………Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Bao trùm đoạn thơ là những nỗi nhớ với tất cả niềm tự hào, nhớ những con đường chiến dịch, nhớ đoàn quân, nhớ dân công,…, nhớ chiến dịch, nhớ đèn pha ra trận,…Qua đó tác giả ngợi ca sức sống mãnh liệt của đất nước , con người Việt Nam trong máu lửa chiến tranh.
* Tám câu thơ tiếp theo tái hiện lại con đường Việt Bắc trong những năm kháng chiến chống Pháp với những nẻo đừơng hành quân, nẻo đường chiến dịch,…
– Các từ láy “ đêm đêm”, “rầm rập”, “điệp điệp”, “ trùng trùng” cùng lối so sánh “ như là đất rung “ đã gợi tả thật hay, thật hào hùng âm vang cuộc kháng chiến thần thánh và sức mạnh nhân nghĩa 4000 năm của dân tộc. Khí thế chiến đấu thần kì của quân dân Việt Bắc làm rung đất chuyển trời mà không một thế lực tàn bạo nào có thể ngăn cản được.
– Cả dân tộc ra trận chống Pháp với sức mạnh không gì ngăn được:
Quân đi điệp điệp trùng trùng……..Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Những câu thơ đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn tái hiện lại khí thế kháng chiến, ra trận của quân ta. Đoàn quân ra trận đông đảo , người người lớp lớp như sóng cuộn “ điệp điệp trùng trùng” .
+ Câu thơ “ Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” là một tứ thơ sáng tạo, vừa thực vừa ảo . “ Ánh sao đầu súng” là ánh sao đêm phản chiếu vào nòng súng thép, ánh sao của bầu trời Việt Bắc , ánh sao lí tưởng chiến đấu vì độc lập tự do như soi sáng nẻo đường hành quân ra trận cho anh bộ đội cụ Hồ.
+ Tác giả thành công ở bút pháp cường điệu trong câu “ Bước chân nát đá …” , bút pháp cường điệu tạo nên âm điệu anh hùng ca , gợi tả sức mạnh Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Quân ta càng đánh càng mạnh, càng mạnh thì càng thắng lớn.
– Những năm đầu kháng chiến , quân và dân ta chỉ có ngọn tầm vông, giáo mác,vũ khí thô sơ. Ta càng đánh càng mạnh,lực lượng kháng chiến ngày thêm hùng hậu . Quân đội ta đã phát triển thành những binh đoàn, có pháo binh, có đoàn xe kéo pháo chở súng đạn, chở binh lương ra tiền tuyến:
“ Nghìn đêm thăm thẳm sương dày…….Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”
Ngọn đèn pha của đoàn xe kéo pháo , của đoàn xe vận tải “ bật sáng” phá tan những lớp sương dày , đẩy lùi những thiếu thốn, khó khăn, soi sáng con đường kháng chiến để “ ngày mai lên”. Hình ảnh thơ mang ý nghĩa tượng trưng cho một tương lai tưoi sáng của đất nước Con đường Việt Bắc, con đường ra trận đầy máu lửa và chiến công và đó cũng là con đường đi tới ngày mai huy hoàng tráng lệ của đất nước, của dân tộc.
* Bốn câu thơ cuối đoạn thể hiện niềm vui chiến thắng lớn của quân dân Việt Bắc, của dân tộc Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp.
Tin vui chiến thắng trăm miền………..Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
– Một lần nữa Tố Hữu gọi tên các địa danh “ chiến thắng trăm miền” trên đất nước thân yêu : Hòa Bình, Tây Bắc , Điện Biên, Đồng Tháp,…Mỗi địa danh ghi lại một chiến công.Tác giả gọi tên địa danh với niềm hân hoan , tự hào chiến thắng.

– Cách nói của tác giả khá độc đáo , khá hay : “ Tin vui…vui về …vui từ …vui lên”. Chiến thắng không phải chỉ một vài nơi rời rạc mà trăm miền, điệp từ “ vui” diễn tả niềm vui lớn, tiếng reo mừng chiến thắng cất lên từ trái tim của hàng triệu con người Việt Nam từ Bắc chí Nam.
* Đoạn thơ là thành công của Tố Hữu ở nghệ thuật thể hiện:
+ Thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc.
+ Sử dụng từ ngữ và các phép điệp tạo giọng điệu mạnh mẽ, mang âm điệu anh hùng ca.
+ Đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn
Nghệ thuật thể hiện đậm tính dân tộc.
Đây là đoạn thơ hay và đẹp trong bài thơ “ Việt Bắc”. Đoạn thơ vang lên như một khúc ca thắng trận của quân dân Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp Khẳng định, ngợi ca, tự hào về quê hưong Việt Bắc “ Quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa” . Đoạn thơ tỏa sáng hồn ta ngọn lửa Điện Biên thần kì và chấn động lòng ta nỗi nhớ vè một tình yêu lớn – yêu Việt Bắc, yêu Cách mạng và yêu quê hương đất nước Việt Nam.
Đoạn thơ thể hiện sự gắn bó ân tình sâu nặng của Tố Hữu với Việt Bắc, với Cách mạng .
g. Đoạn 6 :Lời người cách mạng về xuôi – nhớ quê hương Việt Bắc
Ta với mình,mình với ta…..
Chày đêm nện cối đều đều suối xa
* Trước những câu hỏi chân tình , tha thiết của Việt Bắc , người về xuôi đáp lại những câu cũng chí tình: Ta với mình,mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…
– Xưng hô : ta – mình , mình – mình Xưng hô càng lúc càng gần gũi, thân mật và đậm phong vị ca dao.
– Lời thơ là lời khẳng định, người về xuôi khẳng định “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”
Khẳng định tình cảm của người cách mạng đối với Việt Bắc không thay đổi, trước sau vẫn như một. Ân tình sâu nặng giữa người Cách mạng và việt Bắc trong 15 năm qua như thế nào thì sau này vẫn thế Tấm lòng thủy chung son sắt của người Cách mạng đối với Việt Bắc.
– Người cách mạng trực tiếp bộc lộ tình cảm của mình khi chia xa :
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…
Khẳng định “ mình” đi “ mình” lại nhớ “mình” nghĩa là người cách mạng về xuôi nhớ người Việt Bắc tha thiết . Làm sao không nhớ khi ân tình giữa họ như nước trong nguồn không bao giờ cạn. Cách so sánh khéo léo của tác giả nhằm diễn tả ân tình không bao giờ phai nhạt giữa người cách mạng và người Việt Bắc.
* Để xua tan những hoài nghi của người ở lại , người về xuôi phải nói những lời nồng thắm thể hiện qua nỗi nhớ :
@ Nhớ thiên nhiên Việt Bắc:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi ,nắng chiều lưng nương
Cách so sánh khá độc đáo, nhớ hình ảnh “ trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương” da diết, tha thiết và nồng cháy như “ nhớ người yêu”. Tác giả thể hiện nỗi nhớ thiên nhiên nên thơ, trữ tình của Việt Bắc như nhớ một con người và đó là người yêu – tình yêu. Cái tài hoa của tác giả là diễn tả nỗi nhớ thiên nhiên Việt Bắc của người ra đi như nỗi nhớ trong tình cảm cao quý nhất của con người.
– Nhớ thiên nhiên Việt Bắc còn nhớ rừng núi, sông ngòi,..
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
“ nhớ từng” gợi nỗi nhớ cụ thể về cảnh vật Việt Bắc . Phải có tình cảm gắn bó với thiên nhiên Việt Bắc tác giả mới có kí ức về thiên nhiên sâu sắc như thế : Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Nhớ những địa danh cụ thể nơi núi rừng Việt Bắc , nhớ sông suối lúc vơi lúc đầy ,… Nhớ thiên nhiên Việt Bắc tươi đẹp, nên thơ, trữ tình.
@ Nhớ con người Việt Bắc:
Con người Việt Bắc “ đậm đà lòng son” Người về nhớ da diết những con người:
– Nhớ “ người thương” : Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Hình ảnh “người thương” trong nỗi nhớ của người ra đi gắn liền với hình ảnh “ bếp lửa” trong thời gian “ sớm khuya” gợi ta liên tưởng đến những người làm công tác nuôi quân trong những năm kháng chiến. Sự tảo tần, chịu thương chịu khó của “ người thương” làm cho những người Cách mạng dẫu có chia xa cũng không thể nào quên.
– Nhớ người mẹ dân tộc thiểu số địu con lên rẫy bẻ ngô vào những ngày nắng cháy lưng:
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Hình ảnh người mẹ chịu thương chịu khó thật khiến cho người đọc xúc động, dù trời nắng gắt mẹ vẫn địu con lên rẫy bẻ ngô về nuôi bộ đội, phục vụ Cách mạng, kháng chiến Nhớ những con người Việt Bắc giản dị, tình nghĩa, thủy chung với cách mạng, với kháng chiến.
@ Nhớ cảnh sinh hoạt: – “Nhớ từng bản khói cùng sương”
+ bản bản làng gợi cuộc sống của nhân dân Việt Bắc
+ khói khói bếp , khói bom đạn Cuộc sống người dân Việt Bắc trong những năm kháng chiến chống Pháp .
+ sương hình ảnh thiên nhiên Làm cho núi rừng Việt Bắc thêm thơ mộng, trữ tình.
Nhớ da diết những bản làng chìm trong sương khói chiến tranh .
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng
+ Xưng hô : ta – mình thân mật , gần gũi.
+ Người ra đi khẳng định nỗi nhớ của mình: “ Ta đi ta nhớ những ngày” nhớ những ngày tháng cùng nhân dân Việt Bắc kháng chiến chống Pháp. Đó là những ngày không ít gian lao vất vả nhưng sâu năng ân tình , cùng chia ngọt sẻ bùi, cùng chia nhau củ sắn lùi , chia nhau bát cơm và chia nhau hơi ấm ,… Đó là những ngày gian khổ trong kháng chiến nhưng không dễ gì quên, chính trong gian khổ ấy mà tình nghĩa quân dân càng sâu đậm, càng thắm thiết Sức mạnh của kháng chiến để chiến thắng.
Người ra đi nhớ da diết những ân tình sâu nặng với Việt Bắc trong những năm kháng chiến.
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ kỉ niệm về lớp học xóa mù chữ cho người dân Việt Bắc.
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Nhớ những ngày tháng làm việc ở chiến khu Việt Bắc , tuy nhiều gian nan, vất vả nhưng các chiến sĩ Cách mạng vẫn lạc quan , tin tưởng.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa
Nhớ những âm thanh quen thuộc của cuộc sống người dân Việt Bắc : tiếng mõ trâu mỗi buổi chiều khi chúng về bản làng, nhịp chày giã gạo bên bờ suối,… âm thanh cuộc sống Việt Bắc ngân vang mãi trong lòng người ra đi.
+ Điệp ngữ “ nhớ sao”có nghĩa là rất nhớ nỗi nhớ da diết không sao diễn tả hết Tác giả gắn bó sâu nặng với Việt Bắc.
– Đoạn thơ là thành công của tác giả ở nghệ thuật thể hiện:
+ Thể thơ lục bát của dân tộc
+ Lời thơ thể hiện nỗi nhớ và gợi kỉ niệm với giọng điệu ngọt ngào , tha thiết , tâm tình.
+ Cách xưng hô ta – mình thân thiết, gần gũi , đậm phong vị ca dao.
+ Điệp từ “ nhớ “, điệp ngữ “ nhớ sao” nhằm nhấn mạnh nỗi nhớ.
Đoạn thơ thể hiện nỗi nhớ da diết của người cách mạng , nhớ thiên nhiên Việt Bắc tươi đẹp , thơ mộng, trữ tình; nhớ con người Việt Bắc giản dị, tình nghĩa thủy chung, hết lòng phục vụ Cách mạng , kháng chiến.
Qua nỗi nhớ của người Cách mạng , quê hương Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp thật đẹp, thật ân tình Tác giả yêu mến, tự hào và gắn bó sâu nặng với Việt Bắc.
4. Nghệ thuật :
– Sử dụng thể thơ truyền thống của dân tộc : thơ lục bát.
– Cách xưng hô ta – mình, mình – mình thân mật, gần gũi, đậm phong vị ca dao.
– Lối đối đáp trữ tình của ca dao Việt Nam.
– Giọng thơ tâm tình , ngọt ngào như âm hưởng lời ru.
– Sử dụng thành công các biện pháp tu từ : so sánh, nhân hóa, cường điệu , điệp,…
– Sử dụng lời ăn tiếng nói của nhân dân rất giản dị, mộc mạc nhưng sinh động, hấp dẫn.
– Đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
Nghệ thuật đậm tính dân tộc.

Đề thi thử dại học bài: NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH (NGUYỄN THI)

Đề thi thử đại học môn văn 2016 khối D 10
I. Tác giả
– Nguyễn Thi là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ giải phóng miền Nam trong thời kì chống Mĩ
– Sinh ra ở miền Bắc nhưng gắn bó máu thịt với mảnh đất miền Nam và được mệnh danh là nhà văn của người nông dân Nam Bộ
– Có biệt tài phân tích tâm lí
II. Tác phẩm
1. Hoàn cảnh sáng tác
Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình được hoàn thành vào tháng 2 năm 1966, trong những ngày chiến đấu chống Mĩ ác liệt, khi nhà văn công tác ở tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng.
2.Tóm tắt
Truyện kể về gia đình anh giải phóng quân tên Việt. Việt được sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng, ba mẹ đều bị giết dưới bàn tay của kẻ thù. Chính mối thù sâu sắc với Mĩ- ngụy đã thôi thúc những người con trong gia đình ấy khát khao chiến đấu để trả thù nhà, nợ nước. Trong một trận đánh, Việt bị thương, bị lạc đồng đội. Việt ngất đi tỉnh lại nhiều lần. Cũng giống như những lần tỉnh dậy trước, hồi ức quá khứ, hiện tại luôn đan xen nhau. Lần tỉnh thứ 4 của Việt, kí ức về má hiện về, mấy hạt mưa làm Việt choàng tình hẳn. Việt sợ bóng tối, sợ ma hơn là sợ giặc. Dù bị thương nhưng phân biệt rất rõ đâu là tiếng súng nổ của ta, đâu là tiếng pháo lễnh lãng của giặc. Việt nhớ lại cảnh hai chị em tranh nhau đi tòng quân. Việt đòi đi nhưng chi Chiến không nghe, sau đó phải nhờ chú Năm phân giải. Chú Năm nhất trí cho cả hai đi. Trước khi lên đường, chị Chiến lo thu xếp công việc gia đình. Gửi em Út sang chú Năm, nhà cửa gửi cho các anh trong chi bộ làm nơi dạy học, ruộng trả lại cho xã, gởi bàn thờ má sang chỗ chú Năm. Đoạn trích kết thúc bằng hình ảnh hai chị em Việt- Chiến khiêng bàn thờ má sang gửi chú Năm.
3. Nhan đề
“Những đứa con” trong nhan đề của truyện trước hết chính là Việt và Chiến – những người con trong một “gia đình” nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc, thuỷ chung son sắt với quê hương cách mạng. Mở rộng hơn, còn có thể hiểu đó là thế hệ trẻ miền Nam, những người con của đại “gia đình” miền Nam ruột thịt trong những năm kháng chiến chống Mĩ ác liệt.
Nhan đề gợi lên mối quan hệ giữa riêng với chung, nhà với nước, giữa tình cảm gia đình, với tình yêu nước, yêu cách mạng. Chính sự kết hợp giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ.
4. Tình huống truyện
– Việt – nhân vật chính của truyện bị thương nặng trong một trận đánh, Việt bị lạc đồng đội, ngất đi tỉnh lại nhiều lần. Và chính trong trạng thái khi ngất đi, lúc tỉnh lại, Việt đã hồi tưởng lại những sự kiện diễn ra ở gia đình mình, với mình, chị Chiến.
– Truyện được kể theo dòng ý thức của nhân vật khi liền mạch (lúc tỉnh), khi gián đoạn (lúc ngất) của người trong cuộc làm cho câu chuyện trở nên chân thật hơn; có thể thay đổi đối tượng không gian, thời gian, đan xen tự sự và trữ tình.
5. Nhân vật
5.1. Nhân vật Chiến
– Sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng vẻ vang, có mối thù sâu sắc với Mỹ- ngụy, có tình yêu thương gia đình sâu đậm.
– Chiến 19 tuổi, mang vẻ đẹp trẻ trung khỏe khoắn của người con gái Nam Bộ: Hai bắp tay tròn vo sạm đỏ, màu cháy nắng, thân hình to và chắc nịch. Dáng hình ấy dường như sinh ra để xốc vác, để chống chọi, để chịu đựng để chiến đấu và chiến thắng.
– Hoàn cảnh đã đẩy người con gái ấy sớm trưởng thành, già dặn hơn lứa tuổi rất nhiều, biết chăm lo quán xuyến việc gia đình.
+ Là chị lớn nhất trong gia đình, ba má mất sớm, Chiến gánh vác phần việc chăm lo gia đình, chăm sóc các em.
+ Cách sắp xếp công việc trước khi lên đường: không ngủ, có biết bao nhiêu việc phải lo, viết thư cho chị Hai, gửi thằng Út sang chỗ chú Năm, gửi nhà cho các anh trong chi bộ làm nơi dạy học, nồi, lu, chén, đĩa, cuốc, vá, đèn soi với nơm sang gửi chú Năm, gửi bàn thờ má sang chỗ chú Năm.
+ Chiến liệu việc y hệt má. Hình ảnh người mẹ như bao bọc lấy Chiến từ cái lối nằm với thằng Út em ở trên giường rồi nói với ra, đến lối hứ “cóc” rồi trở mình. Đến nỗi chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi trong đêm, Việt đã không dưới ba lần thấy chị mình giống in như má vậy. Và bản thân Chiến cũng thấy mình cũng giống má “tao lựa ý má còn sống chắc má tính vậy, nên tao cũng tính vậy”. Điều mà Nguyễn Thi muốn khẳng định, trong thời điểm thiêng liêng, lúc quyết định lên đường hình ảnh người mẹ sống hơn bao giờ hết trong lòng những đứa con “Má biến theo con đom đóm trên nóc nhà, hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa mà cầm nón quạt? Đêm nay, dễ gì má vắng mặt”
+ Cách sắp xếp việc nhà đâu vào đó đã khiến cho Chú Năm nhìn cháu thiệt lâu và nói: “Khôn! Việc nhà nó thu được gọn, thì việc nước nó mở được rộng. Gọn bề gia thế, đặng bề nước non. Con nít chúng bây giờ kì đánh giặc này khôn hơn chú hồi trước”. Câu nói ấy, thể hiện sự yên tâm của thế hệ trước đối với lớp người sau. Rõ ràng họ đã trưởng thành, có thể gánh vác được những việc lớn của đất nước.
– Khát khao cầm súng chiến đấu để trả thù cho ba, mẹ, quê hương
+ Tranh giành với em đi chiến đấu: Tao lớn tao mới đi, mầy còn nhỏ, ở nhà phụ làm với chú Năm.
+ Mượn lời chú Năm, dặn dò em: Chú Năm nói, mầy với tao đi kì này là ra chân trời mặt biển, xa nhà thì ráng học chúng học bạn, thù cha mẹ chưa trả mà bỏ về là chú chặt đầu.
+ Câu nói như một lời quyết tâm thư: Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!
– Hình ảnh Chiến cùng Việt khiêng bàn thờ má sang gửi chú Năm đã khẳng định Chiến cũng như em trai của mình đã ý thức rất rõ về trách nhiệm của mình, tấm lòng yêu nước, sự căm thù quân giặc, quyết tâm trả thù cho gia đình, quê hương và tấm lòng thành kính thiêng liêng đối với cha mẹ.
Bằng nghệ thuật dựng chân dung nhân vật độc đáo, kết hợp thành công ngôn ngữ Nam Bộ và ngôn ngữ trần thuật hiện đại, Nguyễn Thi đã tạo nên một phong cách mới lạ. Chiến là hiện thân của thế hệ trẻ miền Nam trong chiến tranh : gan góc, dũng cảm, khát khao chiến đấu để trả thù nhà nợ nước. Chiến mang vẻ đẹp của người con gái Nam Bộ nói riêng và người con gái Việt Nam nói chung . Từ hình ảnh Chiến, một mặt, Nguyễn Thi muốn khẳng định vẻ đẹp của thế hệ trẻ miền Nam những năm đánh Mĩ; mặt khác, thông qua nhân vật này nhà văn muốn gửi đến một thông điệp : sức mạnh của dân tộc được làm nên bởi sức mạnh của mỗi cá nhân; một dân tộc anh hùng là một dân tộc của những con người anh hùng. Một khi lòng yêu nhà và yêu nước hài hòa trong một khối thống nhất, khi tình riêng và lý tưởng chung hòa quyện làm một thì không sức mạnh nào có thể chuyển dời.
5.2. Nhân vật Việt
– Sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng, có mối thù sâu sắc với Mỹ – ngụy.
– Tính tình hồn nhiên, vô tư:
+ Hay tranh giành với chị: Nó là em tôi mà cái gì nó cũng giành
+ Dỗi chị, khi chị Chiến nói: Mầy ở nhà với chú Năm, qua năm hãy đi thì Việt đá trái dừa xuống mương tỏ ý không bằng lòng.
+ Trước hôm lên đường, chị Chiến nói Việt viết thư cho chị Hai, Việt nói: Mai đi rồi mà còn bắt viết thư.
+ Khi chị Chiến lo thu xếp công việc gia đình, Việt mải chụp đom đóm, phó mặc để một mình chị lo toan, coi như những việc chị làm đều là do má dặn. Nghe một lúc, lăn ra ngủ khì.
+ Khi bị thương, Việt sợ bóng tối, sợ con ma cụt đầu ngồi trên cây xoài mồ côi và chỏng thụt lưỡi nhảy nhót ngoài vàm sông mỗi đêm mưa.
Có thể nói, Việt được bạn đọc yêu thích trước nhất là ở cái vẻ lộc ngộc, vô tư. Chiến nhường nhịn em bao nhiêu thì Việt lại hay tranh giành bấy nhiêu. Đêm trước ngày tòng quân, Chiến nói với em những lời trang nghiêm thì Việt lại lăn ra ván cười khì khì, phó thác toàn bộ việc thu xếp cho chị, coi những việc đó là do má dặn chị rồi. Vả lại, là một người chiến sĩ rồi vậy mà Việt vẫn sợ ma.
– Có tình yêu thương gia đình sâu đậm, khát khao cầm súng để chiến đấu:
+ Kí ức về người thân luôn hiện hữu trong Việt, trong lần tỉnh dậy thứ 4, người Việt nhớ đến đầu tiên là má, Việt nhớ lại má đi làm đồng về, xoa đầu Việt, lấy xoong cơm đi làm đồng ở dưới xuồng lên cho Việt ăn. Việt mong ước được má che chở, khát khao được trở lại trong vòng tay của mẹ.
+ Khi hai chị em khiêng bàn thờ má sang gửi chú Năm, Việt thấy thương chị lạ. Việt hứa với người đã khuất: má sang ở tạm bên nhà chú Năm, chừng nào nước nhà độc lập chúng con lại đưa má về.
+ Trong việc tranh giành với chị Chiến để đi tòng quân, “bộ mình chị biết đi trả thù à” không chỉ đơn thuần là sự hồn nhiên mà ẩn chứa trong đó là tình yêu thương gia đình sâu đậm, niềm khát khao chiến đấu để trả thù cho ba mẹ, quê hương.
– Ý chí chiến đấu dũng cảm, kiên cường:
+ Trước hôm lên đường, trong cuộc đối thoại với hai chị em, chị Chiến nói: Chú Năm nói, mầy với tao đi kỳ này là ra chân trời mặt biển, xa nhà thì ráng học chúng học bạn, thù cha mẹ chưa trả mà bỏ về là chú chặt đầu. Việt trả lời chị với lòng đầy quyết tâm: Chị có bị chặt đầu thì chặt chớ chừng nào tôi mới bị.
+ Chiến đấu, bị thương, nhưng bằng sự nhạy cảm của người chiến sĩ, Việt vẫn phân bịêt rất rõ đâu là tiếng súng của ta, đâu là tiếng pháo nổ lễnh lãng của giặc.
+ Bị thương, nhưng quên đi nỗi đau của bản thân vẫn cố gắng lết đi tìm đồng đội và luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.
– Hình ảnh Việt cùng chị Chiến khiêng bàn thờ má sang gửi chú Năm đã khẳng định Việt cũng như chị gái của mình đã ý thức rất rõ về trách nhiệm đối với gia đình, quê hương, tấm lòng yêu nước, sự căm thù quân giặc, quyết tâm trả thù cho gia đình, quê hương. Có yêu thương, có căm thù, có mất mát nhưng có cái vĩnh hằng, có sự quyết liệt nhưng cũng có sự thanh thản, có yếu tố hành động nhưng cũng có yếu tố tâm linh… và mùi thơm thoang thoảng của hoa cam, mùi vị của quê hương sẽ theo Việt trên suốt chặng đường chiến đấu.
Bằng nghệ thuật dựng chân dung nhân vật độc đáo, kết hợp thành công ngôn ngữ Nam Bộ và ngôn ngữ trần thuật hiện đại, Nguyễn Thi đã tạo nên một phong cách mới lạ. Việt là hiện thân của thế hệ trẻ miền Nam trong chiến tranh : gan góc, dũng cảm, khát khao chiến đấu để trả thù nhà nợ nước. Từ hình ảnh Việt, một mặt, Nguyễn Thi muốn khẳng định vẻ đẹp của thế hệ trẻ miền Nam những năm đánh Mĩ; mặt khác, thông qua nhân vật này nhà văn muốn gửi đến một thông điệp : sức mạnh của dân tộc được làm nên bởi sức mạnh của mỗi cá nhân; một dân tộc anh hùng là một dân tộc của những con người anh hùng. Một khi lòng yêu nhà và yêu nước hài hòa trong một khối thống nhất, khi tình riêng và lý tưởng chung hòa quyện làm một thì không sức mạnh nào có thể chuyển dời.
7.Đặc sắc nghệ thuật
– Tình huống truyện hấp dẫn, nghệ thuật trần thuật: trần thuật chủ yếu qua dòng hồi tưởng của nhân vật Việt khi bị thương, ngất đi tỉnh lại nhiều lần. Lối kết cấu dựa vào dòng hồi tưởng nhân vật như thế làm cho truyện giàu cảm xúc, diễn biến linh hoạt, không tuân theo trật tự thời gian.
– Chi tiết được chọn lọc vừa cụ thể, giàu ý nghĩa, gây ấn tượng mạnh. Ngôn ngữ bình dị, phong phú, giàu giá trị tạo hình và đậm sắc thái Nam Bộ.
– Khắc họa tính cách nhân vật đậm chất Nam Bộ: thẳng thắn, bộc trực, lạc quan, yêu quê hương, gia đình, thủy chung đến với cách mạng, ngùn ngụt ngọn lửa căm thù giặc…
– Dựng đối thoại và độc thoại nội tâm hấp dẫn, cảm động.
8. Biểu hiện của khuynh hướng sử thi
Khuynh hướng sử thi thể hiện ở:
+ Chủ đề: ngợi ca tinh thần yêu nước, truyền thống cách mạng của một gia đình cũng là của nhân dân miền Nam trong kháng chiến chống Mĩ.
+ Nhân vật: có tính khái quát cao.
+ Giọng điệu: ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng
9. Chủ đề
Qua hồi ức của Việt khi bị thương, tác giả ngợi ca tinh thần yêu nước, truyền thống cách mạng của một gia đình miền Nam trong kháng chiến chống Mĩ đồng thời khẳng định: chính sự kết hợp giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ.

Đề thi thử đại học bài : ĐẤT NƯỚC ( Trích “ Mặt đường khát vọng”- Nguyễn Khoa Điềm )

Đề thi thử đại học môn văn 2016 khối D 11

1.Tác giả : Nguyễn Khoa Điềm là cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ.
2. Tác phẩm :
a. Hoàn cảnh sáng tác: 1971 , tại chiến khu Trị – Thiên Nhân dân, đất nước kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
b. Nội dung:
– Tác giả cảm nhận vẻ đẹp của Đất Nước ở các phương diện địa lí , lịch sử, văn hóa.
– Khẳng định, nhấn mạnh tư tưởng Đất Nước là của Nhân dân, của những con người cần cù trong lao động, anh hùng trong chiến đấu và nghĩa tình sâu nặng.
– Tình yêu, niềm tự hào của tác giả về quê hương đất nước Việt Nam.
* Đoạn 1: Lí giải về nguồn gốc đất nước
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi….Đất Nước có từ ngày đó …
– Mở đầu đoạn thơ với giọng nhẹ nhàng, thủ thỉ như lời tâm tình kết hợp với hình ảnh thơ bình dị , gần gũi đưa ta về với cội nguồn của đất nước . Đất nước có từ ngày tháng năm nào không ai rõ ,chỉ biết rằng:
“ Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc “
– Thật vậy, Đất nước được hình thành từ rất lâu rồi, từ khi ta cất tiếng chào đời thì đất nước cũng đã trải qua lịch sử tồn tại hơn bốn nghìn năm.
– Khi lí giải về cội nguồn đất nước, tác giả lí giải ĐN gắn liền với mĩ tục thuần phong , với cổ tích truyền thuyết . ĐN với tập tục ăn trầu , búi tóc ; với truyền thống cần cù lao động ( hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng), anh hùng bất khuất chống giặc ngoại xâm ( ĐN lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc), ĐN được hình thành từ lối sống giàu tình nghĩa “ Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” Sự ra đời của ĐN gắn liền với sự hình thành văn hóa , lối sống, phong tục tập quán và những truyền thống cao đẹp của con người Việt Nam.
– ĐN không ở đâu xa mà rất gần gũi với mỗi con người, có ngay trong mỗi một gia đình : cái kèo, cái cột, hạt gạo,…
– Lời thơ như lời kể , hình ảnh giản dị, gần gũi và tác giả vận dụng yếu tố văn hóa dân gian để lí giải cội nguồn đất nước. ĐN thân thuộc, gần gũi và có ngay trong mỗi một gia đình ĐN bình dị, gần gũi nhưng thật thiêng liêng.
– Lí giải nguồn gốc ĐN như thế thể hiện tình yêu, sự gắn bó, niềm tự hào của tác giả về quê hương ĐN.
* Đoạn 2: Cảm nhận Đất Nước về phương diện địa lí , lịch sử và nhắn nhủ ý thức cội nguồn dân tộc
– Về phương diện địa lí , tác giả cảm nhận :
Đất là nơi em đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc “
Nước là nơi “ con cá ngư ông móng nước biển khơi”
+ Tác giả tách ra từng thành tố để định nghĩa “ Đất là ….., Nước là ….. và tổng hợp Đất Nước là ….
+ Tác giả cảm nhận ĐN là những không gian gần gũi, gắn bó và là kỉ niệm của mỗi con người : nơi anh đến trường, nơi em tắm, nơi ta hò hẹn, nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm Những không gian gần gũi, gắn bó sâu nặng và không thể nào quên đối với mỗi con người.
+ ĐN còn là không gian rộng lớn bao la, là núi sông rừng biển, là biên cương tổ quốc :
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc “
Nước là nơi “ con cá ngư ông móng nước biển khơi”
ĐN là tất cả những gì gần gũi, bé nhỏ đến hùng vĩ , thiêng liêng hợp nhất, thống nhất toàn vẹn.
– Về phương diện lịch sử: “ĐN là nơi dân mình đoàn tụ “
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi chim về
Nước là nơi rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
ĐN là không gian sinh sống của cộng đồng dân tộc ta qua bao thế hệ từ thời Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra đồng bào ta trong bọc trứng cho đến nay và cả mai sau ĐN là không gian tồn tại, phát triển của dân tộc ta qua các thế hệ nên ĐN trường tồn theo thời gian đằng đẵng , trải rộng trên một không gian mênh mông. Chính vì thế mà có thế hệ hôm nay, bởi có thế hệ hôm qua. Từ cách cảm nhận đó nhà thơ nhắn nhủ phải có ý thức cội nguồn dân tộc, hay thế hệ đi sau phải biết nhớ ơn thế hệ đi trước – dù bôn ba ở tận chốn nào , người dân Việt Nam cũng đều hướng về đất Tổ , nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của mình.
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.
– Với thể thơ tự do, lời thơ nhẹ nhàng, tình cảm sâu lắng ; Cách diễn đạt bình dị, hiện đại gây ấn tượng vừa gần gũi vừa mới mẻ cho người đọc và Giọng thơ trữ tình – chính trị tha thiết, sâu lắng , giàu chất suy tư.
Đoạn thơ là cảm nhận của tác giả về ĐN ở các phương diện. Khẳng định, tự hào về vẻ đẹp của ĐN và thể hiện tình yêu nước tha thiết của tác giả.
* Đoạn 3: Cảm nhận Đất nước gắn bó thân thiết với mỗi con người VN và lời nhắn nhủ của tác giả
Trong anh và em hôm nay…..Làm nên Đất Nước muôn đời.
* Đất Nước gần gũi và gắn bó thân thiết với anh , với em, với mọi người:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Với giọng thơ tâm tình , ngọt ngào như lời của đôi lứa yêu nhau Tác giả khẳng định Đất Nước có ngay trong mỗi một con người, hay mỗi con người là một phần tử của cộng đồng, đất nước.
Mỗi con người là “ một phần “ bé nhỏ của Đất Nước nhưng biết bao gần gũi, yêu thương và tự hào.
* Ở phần trước nhà thơ cảm nhận :
Đất là nơi em đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất Nước là những không gian gần gũi, quen thuộc của mỗi con người. ĐN hóa thân trong mỗi con người và mỗi con người sẽ làm nên ĐN.
– Chính vì thế mà
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn.
+ Khi “ hai đứa cầm tay” hay hai đứa giao duyên, yêu thương thì một mái ấm gia đình đã được xây dựng và mỗi một gia đình là ‘một phần” của Đất Nước.
Chỉ khi có tình yêu , hạnh phúc gia đình thì mới tạo nên sự “ hài hòa nồng thắm” cho Đất Nước.
+ Khi chúng ta cầm tay mọi người – mọi người có cầm tay nhau, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau – có đoàn kết, yêu thương đồng bào thì mới taọ nên sức mạnh cho Đất Nước “ Đất nước vẹn tròn to lớn”
Từ “ hài hòa nồng thắm” đến “ vẹn tròn to lớn” là cả một bước phát triển và đi lên của lịch sử dân tộc và đất nước . ĐN được cảm nhận là sức mạnh của khối đaị đoàn kết dân tộc. Chỉ có đoàn kết mới tạo nên sức mạnh cho ĐN , cho dân tộc.
– ĐN trong anh và em, ĐN trong chúng ta hôm nay và cả mai sau Nhà thơ nhắn nhủ:
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Thế hệ con cháu mai sau sẽ tiếp bước cha ông xây dựng ĐN ngày càng tươi đẹp, đưa ĐN ngày càng cường thịnh, văn minh . Điều mà mỗi chúng ta “mơ mộng” hôm nay sẽ thành hiện thực trong tương lai không xa.
– Bốn câu thơ cuối đoạn cảm xúc dâng lên càng mạnh mẽ. Giọng thơ trở nên ngọt ngào, say đắm :
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời.
Đoạn thơ thật hay, thật trữ tình và sâu lắng . Nhà thơ cất lời gọi yêu thương “ em ơi em” để nhắn nhủ : ĐN là huyết hệ, là thân thể ruột thịt thân yêu của mình , là mồ hôi bxương máu của tổ tiên, của dân tộc ngàn đời. Vì vậy mà “phải biết “ gắn bó, san sẻ, hóa thân cho dáng hình ĐN – phải biết đoàn kết, chia sẻ và cống hiến, hi sinh cho ĐN . Động từ “ phải biết” như một mệnh lệnh
phát ra từ con tim làm cho giọng thơ mạnh mẽ, chấn động . Ngay trong hoàn cảnh chống Mĩ quyết liệt, lời thơ của NKĐ như lời thức giục con tim, ý thức trách nhiệm của mỗi người đối với ĐN.
Gắn bó, san sẻ, hóa thân cho ĐN là nghĩa vụ thiêng liêng, là tình yêu ĐN của anh, của em và của con người Việt Nam.
* Đoạn 4: Cảm nhận đất nước về phương diện văn hóa.
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu….
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta….
Đoạn thơ ngợi ca Đất Nước hùng vĩ, khẳng định những phẩm chất cao đẹp của nhân dân ta , dân tộc ta Tình yêu , niềm tự hào về quê hương đất nước, con người Việt Nam của tác giả..
* Đoạn 8 câu thơ đầu : Hình tượng một ĐN hùng vĩ, một giang sơn gấm vóc đáng ngợi ca, tự hào.
– Khắp nơi trên mọi miền ĐN ta , ở đâu cũng có những danh lam thắng cảnh . Núi Vọng Phu, Hòn Trống Mái đã đi vào huyền thoại cổ tích. Nguyễn Khoa Điềm đã có một cái nhìn rất nhân văn là núi ấy, hòn ấy là do “ những người vợ nhớ chồng “, hay” cặp vợ chồng yêu nhau” mà góp cho để làm đẹp thêm cho ĐN.
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Núi Vọng Phu ở Lạng Sơn, Thanh Hóa , Bình Định ,…Hòn Trống Mái ở Sầm Sơn không chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Nam . Vợ có nhớ chồng, cặp vợ chồng có yêu nhau thì mới góp cho ĐN những nhúi Vọng Phu, hòn Trống Mái ấy.
Như vậy, tình yêu đôi lứa có thắm thiết, tình nghĩa vợ chồng có thủy chung thì ĐN mới có những hình tượng kì thú, đẹp đẽ ấy.
– Hai câu thơ tiếp theo ca ngợi vẻ đẹp ĐN về mặt lịch sử và truyền thống .
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
+ Cái “ gót ngựa của Thánh Gióng” đã để lại cho ĐN bao ao đầm ở vùng Hà Bắc ngày nay.
+ Chín mươi chín con voi ở Phong Châu đã quần tụ, chung sức chung lòng “góp mình dựng đất tổ Hùng Vương”.
Những từ ngữ “ đi qua còn để lại”, “ góp mình dựng” thật bình dị mà đáng tự hào biết bao, tự hào về sự thiêng liêng của ĐN với khí phách anh hùng, sức mạnh đoàn kết để xây dụng và bảo vệ ĐN.
– ĐN có núi cao, biển rộng, sông dài. ĐN có Sông Hồng “ đỏ nặng phù sa”, có Cửu Long Giang với dáng hình thơ mộng, ôm ấp huyền thoại kiêu sa mà tác giả ví như con rồng.
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Những con rồng “nằm im” từ bao đời nay mà người dân Nam Bộ mến yêu có “ dòng sông xanh thẳm” với nước ngọt phù sa, tôm cá,…và biến lúa bốn mùa Tác giả ngợi ca giang sơn gấm vóc Việt Nam tươi đẹp, con người Việt Nam tài hoa và chịu thương chịu khó.
– Quảng Nam , Quảng Ngãi là quê hương của Hoàng Diệu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng ,…có núi Ấn sông Trà , có núi Bút non Nghiên. Ngắm núi Bút non Nghiên Nguyễn Khoa Điềm không nói đến “ địạ linh nhân kiệt” mà nghĩ về người học trò nghèo , về truyền thống hiếu học và tinh thần tôn sư trọng đạo của nhân dân ta.
Những học trò nghèo góp cho Đất Nước mình Núi Bút, non Nghiên.
“ Nghèo” nhưng vẫn góp cho ĐN núi Bút non Nghiên làm rạng rỡ nền văn hiến Đại Việt Tác giả tự hào về trí tuệ, tài năng của nhân dân ĐN.
– Hạ Long trở thành kì quan , thắng cảnh là nhờ có “Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho” , những tên làng tên núi tên sông như Ông Đốc, Ông Trang ,…ở vùng cực Nam ĐN xa xôi đã do “Những người dân nào đã góp tên” . Những người dân đã đem mồ hôi ,xương máu phá rừng, lấp biển, đào kênh, bắt sấu,…làm nên. Nhà thơ ngợi ca đức tính cần cù , siêng năng, dũng cảm trong lao động sáng tạo của nhân dân Khẳng định nhân dân vô cùng vĩ đại, người chủ nhân “ làm nên ĐN muôn đời”
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Tám câu thơ với bao địa danh và cổ tích huyền thoại được nhà thơ nhắc đến thể hiện niềm tự hào và biết ơn ĐN cùng Nhân dân của tác giả. Các thi liệu – hình ảnh như người vợ, cặp vợ chồng, con cóc, con gà,…dưới ngòi bút của NKĐ mang ý nghĩa biểu trưng cho vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của con người ĐN: trí tuệ, trung hậu, cần cù, anh dũng,…. Chính những vẻ đẹp của nhân dân làm cho ĐN thêm giàu đẹp.
* Đoạn 4 câu cuối: Giọng thơ vang lên say đắm, ngọt ngào .Từ cụ thể đoạn thơ được nâng lên tầm khái quát , tính chính luận kết hợp với chất trữ tình đằm thắm.
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta….
“Ruộng đồng gò bãi “ là hình ảnh của quê hương ĐN . Những tên núi, tên sông, tên đồng, tên bãi,…trên khắp ĐN Việt Nam đều mang một “dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha “. Hình tượng ĐN cũng chính là tâm hồn, phong cách , ước mơ hoài bão của cha ông ta.
Câu thơ “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta….” thật hay, là lời ngợi ca tâm hồn Việt Nam, văn hóa Việt Nam. Chính những con người của ĐN , chính vẻ đẹp tài năng, nhân cách của họ làm nên vẻ đẹp và chiều sâu văn hóa cho ĐN.
* Nghệ thuật :
– Vận dụng sáng tạo chất liệu văn hóa dân gian.
– Kết hợp nhuần nhuyễn yếu tố chính luận và trữ tình.
– Ý tưởng sâu sắc, mới mẻ; chất thơ dạt dào, cảm xúc chân thành và mãnh liệt
Qua hình tượng ĐN tác giả NKĐ ngợi ca tâm hồn nhân dân, bản lĩnh nòi giống và dáng đứng Vnam. Thể hiện tình cảm của tác giả đối với quê hương đất nước: Yêu mến, tự hào về quê hương đất nước.
* Đoạn 5: Tư tưởng đất nước của nhân dân
Em ơi em…….Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.
– Mở đầu đoạn thơ là lời gọi thân thiết, ngọt ngào “ Em ơi em “ Tác giả gọi tha thiết để gởi gắm , nhắn nhủ “ Hãy nhìn rất xa…Vào bốn nghìn năm Đất Nước
Nhìn lại quá khứ của nhân dân, ĐN : ĐN với 4000 năm văn hóa gắn liền với những con người Việt Nam cần cù trong lao động và anh hùng trong chiến đấu:
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Giọng thơ vừa tâm tình vừa khẳng định truyền thống cao đẹp của con người Việt Nam : siêng năng , cần cù trong cuộc sống và anh hùng, kiên cường bất khuất trong chống ngoại xâm.
Đó chính là những anh hùng của ĐN :
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Những người anh hùng ghi danh sử sách rất đáng trân trọng, ngợi ca, tự hào . Lời thơ tác giả không kể rõ nhưng gợi cho người đọc những tấm gương anh hùng như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh , Hồ Chí Minh,…
– Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ ĐN , có những con người đã hi sinh thầm lặng mà tác gải không bao giờ quên :
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ làm ra Đất Nước
Chính những con người bình dị nhưng anh hùng ấy làm nên ĐN .
– Chính nhân dân là người có công lớn trong sự nghiệp ĐN hôm qua, hôm nay và cả mai sau:
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà , từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Tác giả sử dụng Phép lặp, hình ảnh cụ thể và giàu sức gợi cảm nhằm nhấn mạnh , ngợi ca công lao to lớn của Nhân dân trong việc sáng tạo, giữ gìn những giá trị vật chất và tinh thần của ĐN ; sáng tạo và giữ gìn văn hóa, phong tục của ĐN Tác giả khẳng định vai trò to lớn của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ ĐN.
– Chính Nhân dân là người làm nên ĐN nên nhân dân xứng đáng làm chủ ĐN Tác giả khẳng định:
Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Phép điệp cấu trúc cùng với giọng thơ trữ tình – chính luận sâu lắng Tác giả NKĐ khẳng định tư tưởng ĐN là của Nhân dân , Nhân dân đóng vai trò chủ thể trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ ĐN.
– Trong hoàn cảnh kháng chiến , NKĐ khẳng định tư tưởng ĐN là của Nhân dân, phải chăng tác giả muốn khơi dậy trong mỗi người dân ý thức trách nhiệm, tinh thần yêu nước và lòng tự tôn dân tộc Nhân dân đấu tranh bảo vệ ĐN.
– ĐN của Nhân dân với những truyền thống cao đẹp, đáng tự hào:
Dạy anh “ biết yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Vận dụng sáng tạo văn học dân gian để gợi nhắc và khẳng định các truyền thống cao đẹp của nhân dân, ĐN ta: say đắm trong tình yêu, sâu nặng nghĩa tình và anh hùng trong chiến đấu Chính những giá trị tinh thần cao đẹp ấy làm nên sức mạnh cho ĐN để chiến thắng và tiến lên.
– Nhà thơ ý thức được cội nguồn sức mạnh của nhân dân, ĐN nên nhà thơ hi vọng, tin tưởng:
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.
Hình ảnh người chèo đò kéo thuyền vượt thác cất cao tiếng hát …. là hình ảnh đẹp , biểu tượng cho sức mạnh nhân dân chiến thắng mọi thử thách , lạc quan tin tưởng đưa ĐN đi tới ngày mai tươi sáng.
Tình yêu, niềm tự hào và khát vọng xây dựng, cống hiến cho nhân dân , ĐN của người trí thức Nguyễn Khoa Điềm.
– Giọng thơ tâm tình tha thiết , vận dụng sáng tạo các yếu tố văn học dân gian , ý tưởng đẹp, cảm xúc chân thành NKĐ khẳng định tư tưởng ĐN của nhân dân với tất cả niềm tự hào, tình yêu tha thiết với quê hương đất nước.
c. Nghệ thuật :
– Sử dụng nhuần nhuyễn và sáng tạo các yếu tố văn học , văn hóa dân gian như ca dao, tục ngữ, truyền thuyết, phong tục tập quán,…
– Cách diễn đạt bình dị, hiện đại gây ấn tượng vừa gần gũi vừa mới mẻ cho người đọc.
– Giọng thơ trữ tình – chính trị tha thiết, sâu lắng và giàu chất suy tư.
Phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm : kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng về quê hương đất nước và con người Việt Nam.

Đề thi thử đại học bài :TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP – Hồ Chí Minh

Đề thi thử đại học môn văn 2016 khối D 12
1. Hoàn cảnh sáng tác :
– 19/8/1945, CM8/1945 thắng lợi ở Hà Nội.
– 26/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Người soạn thảo Tuyên ngôn độc lập.
– 02/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Người thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc Tuyên ngôn độc lập trước hàng chục vạn đồng bào.
– Khi đó, đế quốc thực dân đang chuẩn bị chiếm lại nước ta. Dưới danh nghĩa quân Đồng minh vào giải giáp vũ khí quân đội Nhật, quân đội Quốc dân đảng Trung Quốc tiến vào từ phía Bắc, quân đội Anh tiến vào từ phía Nam, thực dân Pháp theo chân Đồng Minh, tuyên bố: Đông Dương là đất “bảo hộ” của người Pháp bị Nhật chiếm, nay Nhật đã đầu hàng, Đông Dương phải thuộc quyền của người Pháp.
2. Thể loại : Văn chính luận.
3. Chủ đề : Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử có giá trị to lớn, một áng văn nghị luận bất hủ; tuyên bố xóa bỏ chế độ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm, chấm dứt hơn 8 năm cai trị của thực dân Pháp ở nước ta và mở ra kỉ nguyên tự do, độc lập của dân tộc.
4. Bố cục: Ba đoạn
5. Phân tích bản “Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
5.1. Phần một : Nguyên lý chung (cơ sở pháp lý và chính nghĩa) của bản Tuyên ngôn.
– Cơ sở pháp lý và chính nghĩa của bản Tuyên ngôn Độc lập là khẳng định quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người. Đó là những quyền không ai có thể xâm phạm được; người ta sinh ra phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.
– Hồ Chủ tịch đã trích dẫn 2 câu nổi tiếng trong 2 bản Tuyên ngôn của Mĩ và Pháp
Đề cao những giá trị hiển nhiên của tư tưởng nhân loại và tạo tiền đề cho lập luận sẽ nêu ở mệnh đề tiếp theo.
– Ý nghĩa của việc trích dẫn:
+ Có tính chiến thuật sắc bén, khéo léo, khóa miệng đối phương.
+ Khẳng định tư thế đầy tự hào của dân tộc (đặt 3 cuộc cách mạng, 3 nền độc lập, 3 bản tuyên ngôn ngang hàng nhau)
Câu văn “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” là sự khẳng định một cách hùng hồn chân lí thời
đại : Độc lập, tự do, Hạnh phúc, Bình đẳng của con người, của các dân tộc cần được tôn trọng và bảo vệ.
Đóng góp riêng của tác giả và của dân tộc ta vào một trong những trào lưu tư tưởng cao đẹp vừa mang tầm vóc quốc tế, vừa mang ý nghĩa nhân đạo cao cả.
5.2. Phần hai : Cơ sở thực tế của bản Tuyên ngôn.
* Bản cáo trạng tội ác thực dân Pháp:
– Vạch trần bộ mặt xảo quyệt của thực dân Pháp “lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta”: Về chính trị, văn hóa xã hội, kinh tế…
Sử dụng phương pháp liệt kê; câu văn ngắn dài, động từ mạnh, điệp từ, điệp cú pháp, ngôn ngữ sắc sảo, giọng văn hùng hồn.
– Trong vòng 5 năm (1940 – 1945) thực dân Pháp đã hèn hạ và nhục nhã “bán nước ta hai lần cho Nhật”. Thẳng tay khủng bố Việt Minh; “thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”
Lời kết án đầy phẫn nộ, sôi sục căm thù:
+ Vạch trần thái độ nhục nhã của Pháp (quỳ gối, đầu hàng, bỏ chạy…)
+ Đanh thép tố cáo tội ác tày trời (từ đó,…từ đó..)
* Quá trình đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta:
– Từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Nhân dân ta đã nổi dậy giành chính quyền khi Nhật hàng Đồng minh.
– Nhân dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân và chế độ quân chủ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa. Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị.
– Chế độ thực dân pháp trên đất nước ta vĩnh viễn chấm dứt và xóa bỏ (thoát ly hẳn, xóa bỏ hết…) mọi đặc quyền, đặc lợi của chúng đối với đất nước ta.
– Trên nguyên tắc dân tộc bình đẳng mà tin rằng các nước Đồng minh “quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân tộc Việt Nam”:
Phần thứ hai là những bằng chứng lịch sử không ai chối cãi được, đó là cơ sở thực tế và lịch sử của bản Tuyên ngôn độc lập được Hồ Chí Minh lập luận một cách chặt chẽ với những lý lẽ đanh thép, hùng hồn: Đó là lối biện luận chặt chẽ, logic, từ ngữ sắc sảo, cấu trúc đặc biệt, nhịp điệu dồn dập, lời văn biền ngẫu, cách hành văn theo hệ thống móc xích…
5.3. Phần còn lại: Lời tuyên bố với thế giới.
– Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập (từ khát vọng đến sự thật lịch sử hiển nhiên)
– Nhân dân đã quyết tâm giữ vững quyền tự do, độc lập ấy (được làm nên bằng xương máu và lòng yêu nước).
Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử vô giá của dân tộc ta, thể hiện phong cách chính luận của Hồ Chí Minh.
5.4. Ý nghĩa văn bản:
– Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử vô giá của dân tộc Việt Nam.
– Kết tinh lý tưởng đấu tranh giải phóng dân tộc và tinh thần yêu chuộng độc lập, tự do, hòa bình.
– Là một áng văn chính luận mẫu mực.

Như vậy là chúng ta vừa được chia sẻ Đề thi thử đại học môn văn 2016 khối D rồi. Hy vọng với những bài phân tích này có thể giúp các em ghi nhớ và hoàn thành thật tốt bài thi của mình trong kỳ thi tới. Luôn đồng hành cùng chúng tôi để được cập nhật thật nhiều hình ảnh đẹp, hình ảnh bánh sinh nhật, hình ảnh thiên nhiên….v.v.

Loading...
Share.

About Author